Ông lão thức dậy mở đôi mắt đục ngầu màu
mây, khói sóng. Khẽ chun mũi ông ngửi thấy mùi của gió xuân dìu dịu lẫn
trong vị biển mặn mòi.
Có khi ông còn ngửi thấy cả mùi của nhụy hoa từ đất liền theo gió
bay ra tận đảo. Chắc là trên bờ nhà nhà, người người đang tấp nập đón
xuân. Cận tết những chiếc xe ô tô thường chở hoa từ nơi khác đến bày bán
ở chợ huyện. Người mua thì ít người xem thì nhiều. Những người đàn bà
da đen sạm, cả cơ thể còn tanh nồng mùi cá thích xúm vào ngó nghiêng
những chậu mai vàng. Họ bảo nhau: “Giá có chậu mai này trưng tết thì hết
sảy. Hoa đẹp nhưng đắt quá”. Ngắm mai xong họ tần ngần rút ra nắm tiền
còn dính đầy vẩy cá mua một chậu hoa cúc vạn thọ “vừa đẹp vừa rẻ mà lại
lâu tàn”. Nghĩ đến đó mắt ông bỗng nhòe đi vì nhớ vì thương hay vì gió
sớm có lẫn vài hạt cát. Ông lần mò bước ra khỏi căn lều lụp xụp, ngửa cổ
đón ánh nắng mặt trời. Qua đôi mắt mù lòa ấy ông vẫn thấy biển soi vào
đáy trời trong vắt và nắng xuân đang đổ tràn xuống vai ông vị mật. Giá
có thể thêm thắt vào khung cảnh này bóng dáng tảo tần của một người đàn
bà thì hạnh phúc biết bao. Để vun vén chỗ này sắp xếp chỗ kia. Để đi ra
đi vào đều kiếm chuyện càu nhàu ông không chịu cắt mái tóc rậm rịt,
không chịu cạo bộ râu hôi hám, không chịu rửa chân trước lúc bước vào
nhà nên cát rơi vung vãi khắp nơi. Thứ hạnh phúc ấy ông đã từng có được
trong đời. Nhưng từ ngày người đàn bà ấy bỏ đi thì mùa xuân trong ông
chỉ còn là ký ức.
Ông lần theo tiếng vỗ vào bờ của từng cánh sóng. Mũi ông ngửi thấy
mùi biển. Trên vành môi như đọng những hạt muối li ti chưng cất từ biển
cả, chúng bám cả vào bộ râu xơ xác của ông. Ngồi trên ghềnh đá ông hướng
đôi mắt màu mây về phía đất liền. Từ đảo Gà Trống vào đất liền mất
khoảng nửa giờ đi thuyền nhưng khi còn trai trẻ ông vẫn thường bơi vào
bờ như loài rái cá. Bơi trong cơn nhung nhớ đất liền. Nơi có mái nhà
liêu xiêu, những hàng dừa đổ bóng. Nơi có vại nước mưa uống mát lịm tim
gan. Có khói bếp thơm mùi kho quẹt. Có hương tóc người con gái ông
thương. Ông đứng lấp ló bên hàng rào nghe thấy tiếng nước người thương
gội đầu. Tiếng dép lê loẹt quẹt. Tiếng nhắc mẹ vào nhà kẻo nắng. Tiếng
gọi con chó nựng con mèo. Ông mê mệt giọng nói ngọt như mật mía. Cần gì
phải nhìn thấy mắt biếc môi cười mới biết yêu thương. Ông yêu người con
gái tên Thảo ấy từ mùa xuân năm mười sáu tuổi. Khi hai đứa đứng lơ ngơ
cổng chợ bán những mớ lá dong. Chợ gần cửa biển gió lùa lạnh thấu xương.
Thảo kéo ông ngồi vào một góc. Hai đứa ngồi sát bên nhau, Thảo thỉnh
thoảng lại lấy tay xoa mạnh vào má ông hỏi ấm không? Ấm không? Rồi ngồi
kể chuyện mới làm mẻ mứt gừng, mứt quất. Thảo nhường khách mua lá dong,
nhường luôn cả chiếc khăn ấm cho ông. Chiếc khăn ấy ông mang theo mỗi
chuyến đi biển dài ngày. Nhấp nhô giữa biển khơi mênh mông ông thường
nghĩ về Thảo như nghĩ về bờ…
Nhà ông nghèo. Đàn ông trong nhà nhiều đời vẫn sống bám vào biển
cả. Ông cũng theo cha lênh đênh sóng nước từ khi vừa kịp lớn. Ông yêu
biển như yêu mẹ. Thèm rúc vào lòng biển như loài cá. Bơi lội và lặn
ngụp. Trong một lần đi biển ông gặp trận sốt phát ban. Giữa biển mênh
mông không thuốc thang ông mê man gọi mẹ. Lúc tỉnh dậy đã thấy ánh sáng
bỏ đi, chỉ màu đen tối tìm đến vây quanh còn bên tai là tiếng gió biển
rít từng hồi ghê rợn. Vậy mà ông vẫn yêu biển dù đôi lần oán trách biển
đã giấu ánh sáng đời mình đâu đó. Cũng như trong trận bão cuối mùa đông
năm ông mười bảy tuổi biển đã giấu luôn cả những người thân của ông
xuống đáy sâu. Nỗi nhớ máu mủ ruột thịt cồn cào trong từng hơi thở. Ông
vẫy vùng ôm biển vào lòng. Nước biển mặn như nước mắt mẹ. Lòng biển bao
la như lòng mẹ. Tiếng sóng rì rào như lời mẹ hát ru. Những đầm ấm, sum
vầy, yên ổn trên đất liền cũng không thể khiến ông nguôi biển.
Đã nhiều lần Thảo muốn níu ông ở lại. Nhà rộng quá mà chỉ có hai mẹ
con Thảo nên buồn. Ông thêm thắt vào cảnh đơn chiếc ấy cái dáng vạm vỡ
của một người đàn ông đi biển. Cuối năm sửa lại hàng rào, đốn cây trong
vườn xếp từng chồng củi cao ngất ngưởng dành để nấu bánh chưng. Mấy
chiếc chăn bông nặng quá, mỗi lần mang đi giặt giũ là cần có bàn tay
người đàn ông sức vóc vắt cho khô nước. Nhà dột quá may có người trèo
lên lợp lại. Thảo đứng dưới đất cất giọng ngọt lịm “dịch sang bên phải
một chút anh ơi. Một chút nữa. Đúng rồi”. Bà cụ ngồi gói bánh chưng móm
mém cười cảnh tượng ấy những mong cho đôi trẻ sớm tối sum vầy. Nhưng khi
nồi bánh chưng mang luộc lại thì cũng là lúc chàng trai mù nhấp nhổm
cho một chuyến ra khơi. Chủ tàu mới nhắn “nhổ neo chuyến đầu xuân lấy
hên”. Tiếng biển sóng cứ ào ạt bên tai nên ông không nghe thấy tiếng
Thảo thở dài. Hoa mai còn chưa rụng hết, vại dưa hành ăn vẫn còn cay,
ngoài đường người ta vẫn còn đi chơi tết cơ mà. Có hỏi thì ông bảo “hải
sản sau tết thường đắt mà lại ít tàu thuyền đánh bắt nên tranh thủ đi
thôi”. Thảo nhìn trong đôi mắt bàng bạc màu mây của ông chỉ thấy nỗi nhớ
biển cồn cào. Ông cười “mắt của người mù đâu có sóng em ơi…”.
Ông theo tàu đi biển lênh đênh trên từng cánh sóng. Mắt ông mù
nhưng trời cho đôi tai để cảm nhận từng luồng cá. Có những đêm nặng lưới
vì đón được đúng luồng cá lớn bơi qua, chủ tàu hả hê nâng rượu chúc
mừng. Biển có lúc lặng yên cũng có lúc gầm gào. Nhưng trước những cơn
giận dữ của biển cả ông không hề sợ hãi. Ở đâu đó trong từng con sóng
luôn có bố mẹ, anh em ruột thịt của ông. Họ hộ mệnh chỉ lối dẫn đường
cho tàu neo vào núi đá để tránh bão an toàn. Chủ tàu coi ông như người
nhà như bùa may. Chuyến nào có ông đi là khoang tàu đầy cá. Những lúc
rảnh rỗi nằm bên nhau anh em trên tàu chỉ thích nghe ông kể chuyện về
biển cả. Không hiểu đó là những câu chuyện ông cóp nhặt trong cuộc đời
đi biển? Hay những chuyện do ông tự nghĩ ra? Cũng có thể trong ông tồn
tại một thứ giác quan đặc biệt có thể trò chuyện cùng muôn loài trong
lòng biển cả. Nên với ông rong rêu cũng có nỗi buồn. Những con cá nằm
phơi mình trong khoang tàu đều có câu chuyện riêng về cuộc đời vùng vẫy.
Ông kể hấp dẫn đến mức người ta quên đi ranh giới giữa hiện thực và
huyền ảo. Người ta tưởng như chính biển cả đang rì rào thủ thỉ bên tai.
Người ta thấy cuộc đời lênh đênh trên biển không quá cô đơn, buồn tẻ.
Những ngày về đất liền vì thế mà không còn thấy dằng dặc nữa.
***
Đảo Gà Trống trước kia chỉ là một hòn đảo hoang không người sinh
sống. Vài chiếc thuyền thúng thỉnh thoảng ghé lại tránh những cơn biển
động. Lúc còn bé ông hay theo cha lên đó hái những trái dừa mọc hoang.
Có khi trải vài tấm ni lông phơi ít mực ít tôm cuối ngày sẽ quay lại
lấy. Cũng có hôm mệt quá hai cha con ngủ quên trên đảo. Tỉnh dậy uể oải
nhìn những cánh chim trời mải miết bay. Sau này khi không còn ai bên
cạnh ông bỏ bờ dọn ra đảo sống. Hành trang mang theo không có gì ngoài
mấy túi hạt giống rau mẹ để lại từ vụ trước. Ông dựng một cái lều nhỏ
lấy chỗ chui ra chui vào. Hằng ngày ra biển đánh bắt cá, ít thì để ăn mà
nhiều thì đổi gạo cho các tàu thuyền qua lại. Bữa ăn của ông thường chỉ
có hai món cá và rau. Thỉnh thoảng cũng có thêm chút rượu nhấm nháp.
Những lúc say ông thấy nhớ biển cồn cào. Dù ông đang ở ngay giữa biển
đấy thôi, chỉ cần đi vài bước chân là có thể chạm thịt da mình vào từng
cánh sóng. Ông nhớ biển đến mức cứ tầm bốn giờ sáng là thường tỉnh giấc.
Ông đốt đống lửa to ngồi nghe sóng vỗ. Tàu thuyền nhìn thấy ánh lửa bập
bùng là dậy rục rịch chuẩn bị ra khơi. Ông như con gà trống đơn độc báo
canh. Ở trên bờ không biết Thảo có nhìn thấy quầng đỏ mập mờ hun hút
ngoài khơi không nhưng lòng thì cồn cào thương xót. Bốn năm sau ngày ông
ra đảo sống thì Thảo cũng ra theo. Mẹ già sau một đêm trở gió đã theo
cha ngủ giấc ngàn thu, Thảo cũng chẳng còn gì tha thiết đất liền. Ở đâu
có người thương thì ở đó là nhà…
Đảo Gà Trống bấy giờ đã không còn cô đơn nữa khi có hai mái đầu
chụm vào nhau sớm tối. Ông thôi không đi tàu nữa chỉ quanh quẩn đánh bắt
gần bờ. Sáng thức dậy đã có bát cơm nóng, có người chuẩn bị túi thức ăn
đi biển. Có người dắt tay ra tận thuyền dặn dò. Có người đứng đó ngó
con thuyền trôi lênh đênh trên biển mà thắt cả ruột gan. Người ta mắt
sáng đi biển có khi còn không biết đường về. Huống hồ ông với đôi mắt
màu mây mờ đục biết phương hướng nào mà chèo chống con thuyền? Biết
người ở nhà bời bời ruột gan nên ông thường trở về khi trời chưa kịp
tối. Cá đánh bắt được trở thành món ngon cho bữa cơm chiều. Thảo nấu ăn
rất khéo, ngày nào cũng cơm canh đạm bạc mà vẫn thấy ngon. Bữa cơm nghèo
leo lắt ánh đèn dầu. Họ thủng thẳng nói với nhau về hạnh phúc. Tiếng
chó tranh xương cá xen ngang câu chuyện. Cái đài cũ tắc tịt từ bao giờ
bỗng nhiên dò được sóng kêu lẹt xẹt. Khiến cả người lẫn chó đều giật
mình im lặng vài giây. Một câu vọng cổ đột ngột vang lên khiến Thảo bỗng
nhớ bờ. Mẹ Thảo ngày xưa thích mê vọng cổ. Những buổi chiều yên ả, mẹ
thường ra ngồi ngoài hiên xem lũ trẻ con nô đùa. Những người đàn ông trở
về từ biển, họ đi qua con đường trước nhà với tấm lưng trần bóng nhẫy
mồ hôi. Cơ thể họ tỏa ra vị mặn mòi. Nụ cười họ mang tâm hồn của biển.
Chiều nào họ cũng phủ một màn sương trong mắt mẹ. Cứ như thể vén màn
sương ấy là thấy được trận bão biển năm nào đã cướp mất cha. Cảnh tượng
ấy khiến Thảo không kìm được lòng mình nên lần nào cũng vờ bận bịu cọ
vại dưa, dọn vỏ dừa, ôm củi chất thêm vào bếp. Ấy vậy mà trên đài còn da
diết câu vọng cổ: “Cơn bão dữ đạp lên vùng biển/Cả bầu trời trùm phủ
một màu lam/Gió lớn sóng to ào ạt ngập tràn/Gieo thảm họa điêu tàn trên
quê biển...”. Tiếng ca buồn da diết. Thảo nghĩ về những người đàn ông
của đời mình. Về biển. Về những thương yêu lẫn mất mát ở đời.
Đảo buồn quá. Những lúc chồng đi biển Thảo không biết làm gì cho
hết ngày. Còn lại một mình với chó mèo, nói chuyện với chúng mãi cũng sợ
mình lẩn thẩn. Nhiều hôm Thảo cứ ngồi lặng im nhìn vào bờ cho đến khi
tiếng dừa rụng xuống mới giật mình thảng thốt. Mấy luống rau cứ ngày một
còi cọc hơn. Lâu không mưa nước trong lu đã dùng gần hết. Ở đây gió
biển thổi tứ bề da Thảo đã gần đen sạm mà mấy lọ kem dưỡng da đã dùng
hết lâu rồi. Thảo thèm sắm quần áo mới. Thèm đi chợ tạt qua chỗ này một
chốc chỗ kia một lát. Thèm rủ bạn đi thử màu son. Thèm nghe thấy tiếng
người lao xao đâu đó. Thế mới biết không phải nơi nào có người thương
thì nơi ấy cũng đủ đầy. Ra đảo sống Thảo mới thấy tha thiết bờ đến thế.
Một buổi sáng mùa xuân Thảo nói muốn vào bờ mua ít lương thực và hoa quả
ngày tết. Thảo bảo ông ngồi đợi mình dưới thuyền, chỉ vào chợ một lúc
rồi về. Nhưng ông đợi hoài đợi mãi vẫn không thấy người đàn bà của mình
quay trở lại. Hôm ấy nghe nói những chiếc xe chở đầy hoa tết kéo về chợ
huyện. Bên sạp vải những tấm lụa đẹp nhất cũng được bày ra mướt mắt. Đàn
bà đi chợ gặp nhau hay hỏi chuyện chồng con. Hỏi về những mẻ cá chất
đầy trong khoang tàu và tiền thu về túi. Nếu ai hỏi chắc Thảo chẳng có
gì để kể. Một ông chồng mù và chiếc thuyền rách bươm như chính căn lều
trên đảo.
Ông quay lại đảo chuẩn bị một cái tết cho mình. Ngày ông Táo về
chầu trời mưa rả rích. Cơn mưa kèm theo gió lạnh, biển bàng bạc một màu
buồn. Ông ngồi trong lều nghe gió rít qua mái lá. Đốt một đống lửa nhỏ
ngồi co ro trong chiếc áo bông ông ước gì có được hơi ấm cũ. Những cái
tết có người đàn bà bếp núc còn biết tỏa hương. Mùi mứt gừng, mứt dừa
tỏa ra hơi ấm xua tan cái lạnh. Mùi thịt kho tàu béo ngậy. Mùi hành phi
xôi nếp thơm nức mũi. Mùi của ấm cúng trong mọi bữa cơm vợ chồng ngồi
gắp cho nhau những miếng ngon. Trong buổi tối ngồi gói bánh chưng cùng
nhau mà thứ gì cũng thiếu, lá chuối thay lá dong, dây ni lông thay lạt.
Những đóa vạn thọ tỏa ra mùi nắng át đi thứ tanh nồng của đống lưới đánh
cá phơi bùng nhùng trước nhà. Vợ giục chồng tắm tất niên, cạo râu đi
cho thoáng. Chồng nói “để anh gội đầu cho. Có ít hoa bưởi khô mua rẻ
được trên bờ em không đun nước gội để lâu hỏng mất”. Những ngày nắng
cuối cùng trong năm ông vẫn đi biển còn vợ ở nhà giặt lại chiếu chăn.
Đến manh áo cũ cũng biết thơm tho đón tết.
***
Tết năm nay ông có một cành mai là quà tặng của đoàn cán bộ tỉnh đi
thăm chúc tết các gia đình trên đảo. Họ còn hứa hẹn năm mới sẽ xây tặng
ông một ngôi nhà tình nghĩa. Nhưng ông từ chối “ở một mình tuềnh toàng
vậy cũng vui”. Cành mai nhỏ đặt ở trước nhà đón xuân. Ông sờ từng nụ hoa
mường tượng ra chỉ vài hôm nữa thôi sẽ bung nở những cánh vàng tươi như
nắng mới. Đó là màu của ký ức tuổi thơ. Màu áo người ông thương ngày
nào cũng xách xâu bánh toòng teng đi qua ngõ. Màu của sự đợi chờ mong
ngóng gửi gắm trên từng cánh sóng. Cứ mỗi lần nghe thấy tiếng tàu thuyền
sắp neo lại đảo là ruột gan ông cồn cào. Con đường từ căn lều nhỏ ra
đến bờ biển ông đi lâu ngày thành quen. Vậy mà cứ có tiếng người í ới
ngoài kia là nhiều khi vừa đi vừa vấp. Người khác tưởng ông sống lâu
trên đảo nên thèm tiếng người. Người thì nghĩ ông mong tàu thuyền ghé
lại để đổi ít nước ngọt, mua vài chục cân gạo hay chờ người ta cho vài
thùng mì tôm, vài bộ quần áo ấm. Nhưng không, ông chỉ mong ngóng một
người. Người mà ông thương. Người đã từng vì ông đến đảo rồi vì đảo mà
rời xa ông. Người biết biến căn lều rách nát thành mái ấm. Ông vẫn mong
một ngày nào đó Thảo của ông sẽ quay trở lại.
Chiều ba mươi tết ông thay quần áo, châm ba nén nhang ra khấn trước
sân nhà. Không có bàn thờ, không mâm ngũ quả cũng chẳng có cỗ đầy. Mọi
thứ đều mênh mông, trên là trời xanh dưới là biển cả cứ thế mà vái vọng
bốn phương. Trong một khoảnh khắc nào đó ông thấy mình là vị chúa đảo bé
nhỏ và đơn độc. Vái ba vái cúi lạy đất trời ông tưởng như trong tiếng
sóng có lời đáp lại. Biết đâu đó là lời của cố nhân nhắn nhủ. Hoặc biết
đâu những cánh sóng khấp khởi vui mừng vỗ dưới thân tàu đang hướng về Gà
Trống. Tàu rồi sẽ cập bờ. Người ông thương sẽ bước chân xuống đảo mang
theo những hạt giống mùa xuân gieo trên mảnh đất khô cằn…
Vũ Thị Huyền Trang
No comments:
Post a Comment