Monday, April 30, 2018

BÍCH HUYỀN - Lối cũ chẳng sao quên

Đường trần quên lối cũ
Người đời xa cách mãi
Tình trần khôn hàn gắn thương lòng...

(Gửi Gió Cho Mây Ngàn Bay -
Đoàn Chuẩn-Từ Linh)
 

Vĩnh Phú, địa danh tôi muốn quên mà không thể nào quên. Trong suốt hơn mười năm qua và trong cả cuộc đời . K1, K2, K3, K4...những chữ số ký hiệu kinh hoàng. Của tôi. Của những người tù và gia đình họ. Ở rồi, đến rồi, đi rồi...mấy ai muốn quay trở lại? Vậy mà hôm nay tôi vẫn phải trở về đây. Cảnh vật không khác xưa là bao nhiêu dù thời gian trôi qua bốn năm rồi... 
Những khẩu hiệu:"Chào mừng thành công Đại Hội Đảng 5" ,"Đảng Cộng sản Việt Nam - Người lãnh đạo Tài Tình", "Đảng Cộng sản Việt Nam muôn năm..." lem luốc màu đỏ vì nước mưa, chảy dài xuống như những dòng nước mắt pha máu ngoằn ngoèo trên từng bờ tường loang lổ, cũ kỹ. Ngay phía dưới lại có hàng chữ mang tính "pháp lệnh" bằng những lời thô tục "Cấm ỉa đái". Có cả những nét chữ nguệch ngoạc chửi thề. Hình như không một ai để ý. 
Ở cái ga xép èo uột gần tận cùng của đất nước này, những con người lam lũ, ngác ngơ, còn đang loay hoay với ký trà, bao gạo, rổ rá nhựa, nồi niêu xoong chảo, xấp vải Chợ Lớn hoa xanh, hoa đỏ...Che che, giấu giấu, tránh con mắt dòm ngó của bọn Công an kinh tế. Chính sách của Đảng đổi mới rồi, tự do buôn bán nhưng người dân lại khổ vì sưu cao thuế nặng. Theo lời chỉ dẫn, chúng tôi không đến trại Tân Lập bằng đường sông nữa.
Đạp xe trên bờ đê. Dắt xe đi bộ qua bãi cát lổn nhổn những vỏ sò, vỏ ốc. Băng ngang qua những thửa ruộng khô cằn của vùng đất miền trung du. Cái hình ảnh "quê em miền trung du, đồng chiêm lúa xanh rì..."của một thời hoàng kim nào xa lắm, nay ở đâu? Giặc tràn về đốt phá thôn làng. Gia đình ly tán. "Vườn không nhà trống tàn hoang" còn trong trí óc non nớt của tuổi thơ tôi. Giờ đây, giặc nào đã làm cho miền Bắc điêu tàn? 
 Đảng Cộng Sản Việt Nam, đỉnh cao của trí tuệ loài người! Ôi, mỉa mai thay những khẩu hiệu kêu to như những chiếc thùng rỗng! Đảng lãnh đạo tài tình làm sao để bao nhiêu năm đời ta có Đảng, bấy nhiêu năm Đảng phá nát tan? Để những người dân quê hiền hoà cởi mở trở nên ngu ngơ câm lặng đến thế kia sao? 
Dân cư ở đây rất thưa thớt. Họ sống trong những mái nhà lụp xụp, vách đất, mái tranh. Mảnh vườn. Rào thưa. Khoảng sân đất. Giếng nước. Chiếc gầu..tất cả đều quá nhỏ bé, trơ trụi, xa lạ. Trẻ con gầy còm, ốm yếu. Quần đùi vá víu miếng nọ miếng kia. Cởi trần, ngồi nghịch đất. Không tiếng nô đùa. Không tiếng hát. Không tiếng nhạc của máy thu thanh. Không cả tiếng hót. Như một vùng đất chết. Ba người anh cùng đi với tôi chuyến này đều là những thanh niên đầy nhiệt huyết của hơn ba mươi năm về trước. Thoát ly gia đình, mang tuổi trẻ của mình cống hiến cho đất nước . Để rồi khi biết mình bị lừa thì đã muộn. Cũng dòng sông Lô nắng vàng lấp lánh nhưng còn đâu tiếng hát rộn ràng? Cũng con đê này của những buổi chiều vai đeo ba lô từ chiến khu về, rầm rập bước chân. 
Trong không gian, hồi chuông ngân nga trong chiều thu lộng gió, ba người anh tôi ôn lại một vài kỷ niệm xưa. Tiếc nuối. Tôi làm các anh tỉnh giấc mơ:"Phải chi ngày ấy các anh không đi theo phong trào Thanh Niên Cứu Quốc thì nay em đâu phải đi bốc mộ chồng ở một nơi đèo heo hút gió này!" Ba người anh im lặng. Họ như muốn quên đi những năm tháng sục sôi khí thế cách mạng. Yêu tự do. Yêu tổ quốc. Đánh đuổi giặc Pháp ra khỏi đất nước . Chiến thắng Điện Biên Phủ, ngày trở về giải phóng thủ đô Hà Nội. Những người bộ đội với tuổi hai mươi. Trẻ trung. Học thức. Hà Nội đã bừng lên một sức sống mới. 
Hà Nội rực rỡ cờ hoa. Hà Nội tưng bừng tiếng hát. Không bao lâu, những cuộc đấu tố dã man diễn ra khắp nơi. Ông bác tôi bị đấu tố, dù có năm người con đi kháng chiến. Nghe tin dữ, các anh về quê xin Đảng khoan hồng. Không những không tha, họ còn xúi giục các anh tôi: phải giác ngộ cách mạng, phải đứng vào hàng ngũ nhân dân, cùng vạch tội, chỉ tên địa chủ, cường hào, ác bá. Ông bác tôi bị tù. Khổ sai lao động. Thất vọng, đớn đau nhìn bố vác cây, đào đất, khiêng đá, trộn hồ...Những người tù già này làm việc suốt ngày đêm để đạt chỉ tiêu biến khu đất hoang quanh hồ Bảy Mẫu, Hà Nội, thành một công viên mang tên Thống Nhất. Đến thập niên 1980 đổi thành công viên Lê Nin. 
Cũng vì sự khổ nhục của người bác thân yêu mà bao lần ra Hà Nội là bấy nhiêu lần tôi không đặt chân vào công viên này. Cũng như tôi đã không đến vui chơi khu K4 Long Khánh, một địa điểm du lịch mới lạ của miền Nam. Vì nơi đây được tạo nên bởi những bàn tay của cựu sĩ quan Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà bị Cộng sản tù đầy, hành hạ. 
Các anh tôi, vài năm đầu "Sài Gòn giải phóng", vì đường lối của Đảng, hay vì muốn các em của mình ở miền Nam sớm "giác ngộ" để hoà nhập ngay với cuộc sống mới, đã có những lần tranh luận. Bao giờ cũng trở thành lớn tiếng cãi nhau. Tôi đã làm các anh nhức đầu không ít. Lần cuối cùng, tôi không cãi lại các anh nữa. "Đảng đã cho các anh tôi sáng mắt sáng lòng”. Đó là lần một anh nói với tôi:"Người em không yêu làm em khổ, em đâu có đau bằng anh? Anh đã yêu, anh đã dâng hiến cả cuộc đờim mà ngày nay anh bị phụ bạc, anh bị lừa dối...". Một anh khác:"Viên gạch đã trót để vào xây tường, giờ có rút ra cũng bị vỡ tan. Thôi em ạ, không còn con đường nào khác!" 
Trên con đê này, giữa khung cảnh hoang vắng của buổi chiều trung du, bốn anh em đi bên nhau. Thương cho thân mình. Thương cho các anh. Lý tưởng sụp đổ tan tành. Ngày mai đen tối. 
Trời chạng vạng. Tôi đã bắt đầu đi những bước thấp bước cao. Quãng đường này làm tôi nhớ lại những lần vượt biên. Xuống ghe tại Nhà Bè khi thành phố còn chìm trong màn đêm. Lên bờ đi bộ băng qua bao nhiêu là thửa ruộng. Vấp ngã bao lần mà không cảm thấy đau đớn vì thần kinh đang trong tình trạng căng thẳng: hồi hộp, lo sợ. 
Lần này trên cánh đồng: mệt mỏi, chán chường…Cũng phải vài giờ nữa mới tới trụ sở Ban Chỉ Huy. Tiếng dế nỉ non. Xa xa ánh đèn leo lét. Cố lê bước tới đó để xin ngủ nhờ qua đêm. Nhìn một căn nhà tương đối khang trang, chúng tôi vào gặp chủ nhà xin ngủ đỡ ngoài mái hiên. Nhưng cũng bị từ chối. Đang lo lắng không biết tôi có đủ sức đi tiếp hay không, thì như có phép lạ, một người đàn bà gánh lúa từ xa đi tới. Bà ta dừng lại:"Các bác tìm nhà ai thế?" Khi biết ý, bà ta mời chúng tôi về nhà. Bốn anh em mừng rỡ như người sắp chết đuối vớ được chiếc phao. Dù gánh lúa nặng trĩu trên vai, bà ta vẫn bước đi thoăn thoắt. Trong khi tôi lẽo đẽo theo sau. 
Khi bà đẩy cánh cổng tre, bóng tối làm tôi không thể nhìn rõ một người đàn ông đang xếp lúa ngay đầu nhà. Ông ta không quay lại và cũng không lên tiếng đáp lại lời chào của các anh tôi. Trước thái độ lạnh nhạt đó, chúng tôi hơi e ngại. Trong lòng vẫn mừng thầm không bị đuổi ra. 
Một gian nhà ba gian bằng tre sơ sài nhưng gọn ghẽ. Nhìn cách trang trí nhà cửa, nhìn bức tượng Chúa nho nhỏ trên bàn thờ cao, tôi có thể đoán chủ nhân không phải là người quê mùa. Tôi ôm bộ quần áo ra giếng. Những giọt nước mát lạnh làm tôi tỉnh táo lại. Trăng bắt đầu lên. Tôi đã nhìn rõ khung cảnh chung quanh. Mảnh sân hình chữ nhật. Khu vườn nhỏ. Chái bếp cuối sân. Ánh lửa bập bùng. Hàng cây cau vươn cao đón ánh trăng. Tôi liên tưởng tới hàng cau của khu vườn trước nhà tôi ở quê hương. Ngày còn nhỏ, tôi vẫn thường trèo lên nhanh như một chú mèo con để hái quả cau cho mẹ tôi têm trầu đãi khách. Trong không gian thoang thoảng mùi hương hoa thiên lý. Âm thanh tiếng đàn mandoline bản Valse Favorite vui tươi, tiếng hát chan chứa tình quê "Làng tôi xanh bóng tre. Hồn lắng tiếng chuông ngân. Tiếng chuông nhà thờ rung..." chợt khua động trong tôi ngày tháng êm đềm thời thơ ấu. 
Tôi thở thật sâu để nén xúc cảm. Đêm yên lặng. Đêm mờ ảo. Tất cả đều rất mong manh. Một tiếng động nhỏ cũng đủ làm tan vỡ giấc mơ xưa thoáng đến với tôi, đưa tôi về thực tại. Tôi phải vào nhà để bàn chuyện ngày mai. 
Tiếng cười nói làm tôi ngạc nhiên. Ông chủ nhà cùng ba anh tôi đang vui vẻ quây quần bên khay trà bốc khói. Thấy tôi vào, ông kéo ghế trịnh trọng mời ngồi. Tôi còn đang ngơ ngác trước thái độ thay đổi nhanh chóng thì một anh đã giải thích:"Ban đầu ông Tuyển tưởng anh em mình đi thăm nuôi tù. Bây giờ ở đây có tù hình sự (những thanh thiếu niên can tội cướp của giết người ) Tù chính trị chuyển đi từ lâu rồi. Một số về trại Hà Nam Ninh. Đa số vào Nam. 
Ông Tuyển đặt ly trà thơm phức trước mặt tôi: "Được biết cô về đây bốc mộ cho chồng, chúng tôi vô cùng cảm kích. Gia đình chúng tôi xin hết sức giúp đỡ cô và các ông anh đây." 
Vầng trán cao. Khuôn mặt chữ điền. Cách nói chuyện lưu loát cùng dáng điệu từ tốn, cử chỉ lịch sự, chứng tỏ ông Tuyển là một người có một số vốn kiến thức về học vấn cũng như về xã hội. Ông cho biết có một người anh là linh mục trong một ngôi nhà thờ vùng đất đỏ Long Khánh. 
Ông Tuyển đã sắp xếp chỗ ngủ cho chúng tôi. Để khách được tự do, ông Tuyển dặn dò vợ con và đi vào thôi tìm người quen chuyên việc cải táng. 
Gian phòng khách rộng, sơ sài nhưng ngăn nắp. Giường tre, bàn gỗ mộc mạc, thô kệch, được hình thành có lẽ do bàn tay của chủ nhà. Tượng Chúa và tượng Đức Mẹ trên cao là một hình ảnh cảm động hiếm có trong những ngôi nhà tại miền Bắc. Theo như lời ông Tuyển, đời sống gia đình ông bắt đầu khá hơn kể từ khi hợp tác xã nhà nước tan vỡ. Lối làm ăn tập thể nhường lại cho lối khoán sản phẩm. Tuy nhiên, vẫn phải nộp đủ cho nhà nước , cả nhà xúm nhau cày cấy mới có gạo ăn. 
Dưới nhà ngang, các con ông bà Tuyển đang đập lúa, giã gạo, sàng sẩy...Mọi người chăm chú làm việc, không tò mò để ý khách phương xa. Tôi mệt mỏi nằm thiếp đi trong chốc lát. 
Khi tôi tỉnh dậy, trăng đã lên cao. Ông Tuyển vừa về tới. Tay cầm hai chai rượu và một bó hoa tươi. Ông cho biết đã tìm được một người rất thành thạo trong việc bốc mộ. Chai rượu này để rửa hài cốt. Tìm mua được rượu ở miền núi không phải là chuyện dễ dàng.
Bà Tuyển bưng mâm cơm từ nhà bếp lên. Chúng tôi trải chiếu ngoài hiên, ngồi ăn cơm dưới ánh trăng. Đĩa thịt gà luộc thơm mùi lá chanh thái chỉ rắc lên trên. Tô canh rau "tập tàng"- đủ mọi loại rau hái ngoài vườn - mát ngọt. Tôi không ngờ anh em chúng tôi được đối xử như một thượng khách ở nơi đây. Thế mới biết ở một nơi tưởng chừng như không có, ta vẫn tìm thấy một tấm lòng.
Qua một đêm ngủ với nhiều mộng mị, sáng sớm hôm sau, tôi và các anh đến Bộ Chỉ Huy. Có quãng đường đi được bằng xe đạp. Có quãng đường đá lởm chởm phải dắt bộ. Chỉ huy trại là người mới. Không phải Thiếu Tá Nguyễn Huy Thùy tôi gặp lần trước. Hắn vồn vã thái quá, khiến tôi chỉ im lặng ngồi nghe. Hắn kể chuyện, có một người nước ngoài, cách đây không lâu, về đây bốc mộ bố. Cầm bình hài cốt lên xe, xe không nổ máy. Gọi xe ngựa đến kéo, con ngựa nhảy quớ lên không chịu chạy.
Nhìn hắn ba hoa, ngồi bỏ cả hai chân lên ghế, tôi hơi khó chịu. Nhất là cặp mắt hắn thỉnh thoảng lại nhìn vào mấy bao thuốc là "555" anh tôi mang đến làm quà. "Ba con năm vừa nằm vừa ký", cho nên bọn tôi mới được chấp thuận một cách dễ dàng.
Những chuyện hắn nói có thể xảy ra ở đâu, hắn nghe được. Hắn muốn nói đến đời sống tâm linh. Anh em tôi thì có rất ít thời gian. Cũng có thể sau một thời gian quá dài bị đè nén, những con người triệt để chống chủ nghĩa duy tâm ngày nay bắt đầu duy tâm hơn ai hết.
Xe Volga cọc cạch chở chúng tôi đi lên ngọn đồi, nơi an nghỉ của những quân nhân chế độ cũ. Ít ra từ ngày Việt Cộng muốn bang giao với Mỹ, đã có lúc họ bỏ được từ ngữ "ngụy quân ngụy quyền". Nhưng tiếc tay những tên gọi này vẫn là vết hằn trong lòng người Việt.
Tôi ngồi đợi trong một căn nhà nhỏ dựng sơ sài bằng tre nứa. Nền đất lồi lõm. Trên vách nhỏ treo đủ thứ khẩu hiệu, kế hoạch công tác hàng tháng, tuần... Hình ảnh các lãnh tụ Cộng Sản thế giới và trong nước quá khổ so với bức vách, treo xộc xệch như sắp rơi. Đây là nơi làm việc của toán công an canh gác.
Cách đây bốn năm, khi tôi đến nơi đây nhận mộ chồng, cảnh vật chung quanh gọn ghẽ hơn. Hàng ngày còn có bàn tay bạn tù săn sóc. Giờ đây cỏ cây, dây leo chằng chịt, không nhìn thấy lối đi. Hơn một giờ đồng hồ trôi qua, tên công an cầm bản đồ nghĩa trang và các anh tôi trở lại trụ sở với gương mặt thất vọng. Không tìm thấy mộ vì cỏ cây che lấp cả một vùng rộng lớn. Tim tôi như muốn ngừng lại. Chẳng lẽ lại về không?
Tôi xin mọi người hãy cho tôi đến tìm. Tôi thầm cầu nguyện cũng như ở Sài Gòn, mẹ tôi và các em tôi đã cầu nguyện cho chuyến đi của tôi được tốt đẹp.
Kỳ lạ thay! Tôi chỉ vạch lá chui vào đúng một quãng ngắn là tìm ra mộ. Tôi reo to lên. Các anh tôi đứng ngoài không tin. Ngôi mộ có hai bia đá. Tôi lầm thế nào được. Một tấm bia tôi mang từ Hà Nội lên. Một tấm bia nữa của anh em bạn tù đẽo gọt bằng tay. Nét chữ khắc vào đá mờ đi vì rêu phủ.
Trong khi người thợ cải táng chặt cây cối chung quanh, tôi thắp nhang lui cui cắm trên từng ngôi mộ. Đêm mưa, cỏ ướt, ngửi thấy có hơi người, những con vắt nhảy ra, bám lấy chúng tôi. Máu chảy ròng ròng. Tôi muốn ngất người đi vì sợ. Cây cối quang dần. Dầu nóng tôi bôi đầy mặt, mũi, chân, tay, khiến những chú dế bé xíu cũng không dám nhảy ra đột kích nữa.
Một ít trái cây mua vội dọc đường, bó hoa ông Tuyển mua dùm, chúng tôi chỉ có những tấm lòng thành trước linh hồn người đã khuất. Người anh lớn nhất của tôi khấn thật lâu. Những cây nhang cháy rất nhanh, tàn cong vòng...khói nhang thơm toả ngát. Nhát cuốc đầu tiên bổ xuống đất, lòng tôi đau buốt. Tiếng cuốc, xẻng đều đều vang vọng giữa miền rừng núi hoang vu. Từng tảng đất bật lên, tâm hồn tôi nhu vỡ vụn. Cho tới lúc lưỡi cuốc đụng vào quan tài. Tôi hồi hộp. Các anh tôi nôn nóng.
Khi tôi ra đến Hà Nội, các bậc lão thành có trấn an:"Đất núi miền khô ráo, xương cốt lâu ngày sẽ tan đi. Phải chuẩn bị tinh thần: có thể đứng trước một cái hòm chỉ có đầy cát bụi!"
Thế cho nên khi những nhát búa đầu tiên bổ xuống để nạy nắp quan tài, tôi cứ giật thót mình. Một cảm giác đớn đau như lần đầu tiên nghe thấy tiếng đóng đinh vào quan tài bố tôi lúc liệm quan...
Gỗ áo quan dầy và chắc. Khi chiếc nắp bật lên, tôi lạnh người: chiếc chăn len màu đỏ! Suốt đêm qua, người anh lớn của tôi cứ chợp mắt là nằm mơ thấy xác chồng tôi quấn bằng mảnh vải màu đỏ. Gương mặt các anh tôi xúc động. Bóc lượt chăn len ra là quần áo. Hết lớp áo này đến lớp quần khác. Bàn bè đã dồn tất cả cho người chết mang đi. Nước mắt tôi ràn rụa. Màu xanh lá cây đậm của chiếc áo len mẹ tôi mua tặng, gửi trong năm ký lô quà đầu tiên ra Bắc. Chiếc sơ-mi trắng ngà có từng sợi chỉ xanh xanh, hồng nhạt, mang về Sài Gòn sau chuyến du học tại Mỹ năm 1971. Chai dầu gió, đôi giày ba ta...tất cả tôi đã tự tay xếp vào ba lô trước ngày anh đi trình diện "học tập cải tạo".
Không còn lầm được. Không còn ảo tưởng:"Đã trốn trại, còn đang ẩn trốn tại một nơi nào." Tôi mất anh thật rồi! Thế là hết. Tôi khóc nức lên. Trời như nổi gió. Cỏ cây chao đảo. Đồi núi quay cuồng. Quanh tôi cảnh vật mờ đi...
Lâu lắm, khi tôi tỉnh dậy, đống tro tàn của áo quần vừa đốt còn âm ỉ cháy. Trong một cái sanh to bằng gang dùng thổi cơm cho trại tù đã gẫy tay cầm, các anh tôi đã đổ bột nhang thơm với rượu trắng để ngâm xương cốt. Người thợ cải táng cùng các anh tôi quấn giấy bao từng lóng xương, đặt từng mảnh vào trong nhiều túi ni-lông ...
Không gian mênh mông yên lặng. Tôi lặng lẽ theo các anh tôi bước nhanh cho kịp chuyến đò cuối cùng...
(Chuyến bốc mộ vào năm 1985)

Trích tập truyện Lối Cũ Chẳng Sao Quên
(The Trail I Never Forget)
tác giả: Bích Huyền

Sunday, April 29, 2018

Tháng Tư và những dòng sông Bến Hải

Tháng Tư và những dòng sông Bến Hải hôm nay, tôi là cậu thiếu niên 16 tuổi trong một phiên gác Nhân Dân Tự Vệ .. Trời mưa sấm và chớp, nhóm của tôi toán ba người đang rút vào nhà một người quen trú mưa chờ dứt phiên gác, và vô tình cùng gia đình họ ngồi nghe trực tiếp truyền thanh toàn bộ buổi bàn giao chức vụ Tổng Thống lịch sử.
__________________________________
.“…Đây là phóng viên Hệ Thống Truyền Thanh Việt Nam, quí thính giả đang theo dõi trực tiếp truyền thanh lễ trao nhiệm chức Tổng thống VNCH giữa ông Trần Văn Hương và cựu Đại tướng Dương Văn Minh…
==> Thưa quí thính giả vào lúc này bên ngoài Dinh Dộc Lập chúng tôi nhận thấy trời đã bắt đầu mưa nhỏ và Saigon đang trải qua một buổi chiều u ám như hoàn cảnh hiện tại của đất nước…” .. Đó là nguyên văn câu mở đầu tường thuật của người phóng viên trong buổi lễ, giọng nói đầy xúc cảm của người phóng viên đó đã in sâu trong đầu tôi suốt bao nhiêu năm dài, chính câu nói đó chỉ trong mấy giây thôi, đã thay đổi tôi thành một người khác.
Tôi bỗng nhận ra tôi là ai. Tôi bỗng nhận ra hai chữ “đất nước” của người phóng viên vừa nhắc đến đó chính là “đất nước” hiện tại của tôi đang sống, đang thở. Cái “đất nước” đã nuôi tôi khôn lớn, đã cho tôi những tháng ngày tươi đẹp của tuổi ấu thơ, đã dạy cho tôi bao điều hay lẽ phải trong trường lớp…
Đau đớn thay, tôi biết cái “đất nước” này của tôi đang hấp hối, nó đang thoi thóp những ngày cuối cùng. Tôi thương “đất nước” của tôi quá! Tôi tiếc nuối, tội nghiệp cho nó quá ! Nhưng biết làm gì hơn khi bánh xe lịch sử đang quay cuồng trong cơn giông tố của thời đại.
“Thưa quí thính giả, vào lúc này bên ngoài Dinh Độc Lập chúng tôi nhận thấy trời đã bắt đầu mưa nhỏ và Saigon đang trải qua một buổi chiều u ám như hoàn cảnh hiện tại của đất nước…”
Trời đang đổ mưa hay đang nhỏ lệ ?
Ôi có buổi chiều nào u ám như hoàn cảnh của đất nước tôi chiều ngày 28-4 ! và đã hơn bốn mươi mấy năm rồi, và câu nói đầy xúc cảm đó đến nay như vẫn còn văng vẳng bên tai.
==> 30-4-1975 Ngày Định Mệnh.
Nhà tôi ngay mặt tiền đường Trương Minh Giảng. Quận 3, bây giờ thì họ gọi là đường Lê Văn Sĩ, truớc đó, có thời tên là đường Nguyễn Văn Trỗi, đây là một trong ba con đường chính dẫn đến phi trường Tân Sơn Nhất của Sài gòn, từ nhà tôi, mấy ngày nay đã có thể dễ dàng trông thấy những cụm khói bốc lên từ phía phi trường cùng những tiếng nổ ì ầm vọng lại…
Sáng ngày 30-4 ,bỗng nhiên vắng lặng một cách lạ lùng. Không có tiếng súng. Không bóng người trên đường phố, khoảng 8 giờ sáng từng tốp nhỏ những người lính Cộng Hòa từ phía phi trường đi bộ lên. Không đội hình. Không súng ống. Một số không cả ba lô hành trang nào cả. Những người lính đi mà hình như không biết đang đi đâu. Họ chỉ đi…
Một tốp lính khoảng chừng 10 người dừng lại trước nhà tôi. Những người lính rất trẻ. Họ bắt đầu cởi áo lính.
Nhà tôi lúc đó có một người anh họ là Trung úy Bộ binh, từ Phan Thiết dẫn được vợ con chạy kịp về Sài Gòn mấy ngày trước, tỵ nạn trong nhà. Anh ấy và ba tôi nói chuyện gì một lúc, tôi thấy hai người gom một mớ quần áo và tiền. Xong, anh tôi ôm mớ quần áo và tiền đó mở cửa bước ra trao lại cho những người lính này. Anh tôi bắt tay vài người, vỗ vai an ủi vài người lính khác…. Họ có nói với nhau vài lời nhưng tôi không nghe rõ. Trước khi trở lại vào nhà, anh móc túi lấy gói thuốc trao lại cho một người lính trong đó.
Vài tiếng sau, một đoàn lính khác từ phía phi trường đi bộ lên
Rất đông.
Họ đi ngay hàng thẳng lối, nép sát dưới những mái hiên.
Đội hình kỷ luật. Ba lô súng ống đầy đủ.
Và im lặng.
Toán bộ đội chính quy Cộng Sản Bắc Việt đầu tiên tiến vào Sài Gòn từ ngã phi trường.
Thành phố tôi ở chính thức đổi chủ,
… và đổi tên .
Những dòng sông Bến Hải hôm nay.
Năm 1954, hiệp định Geneve lấy dòng sông Bến Hải chia đôi hai miền Nam-Bắc, bắt đầu cho cuộc chiến tranh ý thức hệ huynh đệ tương tàn.
30-4-1975, nội chiến chấm dứt. Dòng sông hiền hòa ở vĩ tuyến 17 đó không còn chia cách núi sông đôi miền đất nước nữa, nhưng đã có biết bao con sông Bến Hải khác…
Có trong tim của hàng triệu người dân Việt dòng sông Bến Hải của bên thắng cuộc và người thua cuộc !
Có trong tim của hàng triệu người dân Việt dòng sông Bến Hải của người giải phóng và người bị giải phóng !
Có trong tim của hàng triệu người dân Việt dòng sông Bến Hải của ngày chiến thắng 30 tháng tư và ngày quốc hận 30 tháng tư !
Và có trong tim của ông Võ Văn Kiệt hàng triệu dòng sông Bến Hải khác.
Cuối năm 2004, khi nhắc đến cuộc chiến tranh đã lùi xa gần ba mươi năm, Cố cựu Thủ Tướng Việt Nam Võ Văn Kiệt phát biểu :
– “Nhiều sự kiện khi nhắc lại, có hàng triệu người vui mà cũng có hàng triệu người buồn”.
Có lẽ đó là câu nói thành thực nhứt của một nhà lãnh đạo Cộng sản Việt Nam kể từ khi đảng Cộng sản được thành lập.
Đã bốn mươi mấy lần tháng Tư.
Bạn ở trong số hàng triệu người vui, và nếu vẫn còn vui thì…cứ vui.
Tôi ở trong số hàng triệu người buồn kia, mối hờn ... chất chồng theo năm tháng…
Xin hết




























Sài gòn 30 tháng 4


Sống đến 30t mà chưa nhận ra bản chất của cộng sản là kẻ ko có trái tim , sống đến 40t mà chưa nhận ra sự dối trá lọc lừa tàn độc của cộng sản là kẻ ko có cái đầu.
_______________________________
Sài Gòn - ngày 29 tháng 4 năm 1975 ,Phi trường Tân Sơn Nhất, nơi đồn trú của bộ tư lệnh Không Quân VNCH và Sư Đoàn 5 Không Quân trân mình chịu đựng những cơn pháo kích của Cộng quân từ 3 giờ sáng ,những chiếc phi cơ đủ loại phơi mình trong nắng như thách thức đạn pháo của địch, một vài chiếc C123 đang bốc cháy vì trúng đạn pháo.
Lực lượng phòng thủ phi trường đang cố gắng chống đỡ trong tuyệt vọng, hầu hết những tướng tá, những người anh cả trong đơn vị đã hùng dũng dùng quyền lưc của mình để xử dụng những phương tiện để đào thoát, bỏ mặc những binh sĩ thuộc hạ tự lo lấy thân
Trên bầu trời xanh cuối tháng Tư, khoảng chín giờ sáng chiếc AC119 (*) vẫn lầm lũi,bướng bỉnh đảo vòng quanh phi trường rải những lưới đạn đại liên xuống những vị trí chung quanh vòng đai phi trường nơi đám Cộng quân đang điên cuồng cố gắng thanh toán nốt mục tiêu cuối cùng. Quân cộng Sản cố gắng triệt hạ chiếc AC119 cô đơn bằng nhữnh lằn đạn phòng không. Chung quanh phi cơ, những nấm khói trắng vội vã nở bung như những bông hoa tiếp theo những tràng đạn chát chúa nhưng chiếc phi cơ vẫn lầm lì coi thường đáp trả lại bằng những cơn mưa đạn hung thần xuống đầu bọn chúng mà chẳng cần bay lượn tránh né.
Bỗng một tiếng nổ xé trời ,vệt khói trắng bay thẳng như mũi tên lao thẳng vào chiếc phi cơ . Chiếc AC119 nổ tung trong trái cầu lửa, thân phi cơ gẫy vụn làm nhiều mảnh, những mảnh nhôm vỏ bọc phi cơ bay lờ lững trong không gian như những chiếc lá vàng mùa thu trong cơn cuồng phong,không một bông dù được bung ra.Đất nước vừa có thêm những anh hùng vô danh: Phi Hành Đoàn AC119. đền nợ nước bởi hỏa tiễn Sam hay SA7 của Việt Cộng.
Người lính kỹ thuật Không Quân trào nước mắt, tay cầm mũ ấp vào ngực cúi đầu chào vĩnh biệt đồng đội vừa anh dũng hy sinh trên chiếc AC119 . Động lực nào mà các anh đã dũng cảm chiến đấu một cách vô vọng trong lúc các anh có thừa phương tiện đào thoát trong tay ? các anh đã vĩnh viễn ra đi bỏ lại mẹ già,vợ dại, con thơ và những người thân ? chỉ có câu trả lời duy nhất : Thà chết vinh hơn sống nhục, các anh không chịu đầu hàng một cách tủi nhuc như lệnh của ông Tổng Thống Cuối cùng sau khi lên nắm quyền chưa đươc 24 giờ.
Lầm lũi rời khỏi cổng Phi Long ( cổng chính phi trường TSN), khẩu súng M16 trên vai và hai kẹp đạn trong túi, tâm hồn tan nát như những mảnh vụn của chiếc C119 vừa nổ tung, hắn quên luôn cả lệnh buông súng đầu hàng, quên luôn những nguy hiểm chung quanh hắn, chỉ một tên “ cách mạng 30” với vũ khí vừa nhặt được trên đường phố hay những nòng súng bắn sẻ đâu đó từ những con hẻm, góc phố hay từ sau những cánh cửa nào đó cũng dễ dàng đưa linh hồn hắn gặp các đồng ngũ của hắn vừa ra đi . Dù chợt nhớ tới lệnh buông vũ khí nhưng hắn cũng bất cần, nếu bị bắn sẻ mà ra đi trong lúc này thì chắc còn dễ chịu hơn phải sống như bây giờ.
Bước chân vô định qua những đống quân phục , nón sắt, giầy bốt,vũ khí của đầy đủ các quân chủng bỏ ngổn ngang trên đường phố , những tiếng súng lẻ tẻ hay từng loạt đạn nổ chat chúa cũng không kéo được hắn ra khỏi cơn mộng du. Ký ức lôi kéo hắn trở lai những ngày sau cùng của cuộc chiến . Mất Ban Mê Thuột, Pleiku , Huế. Đà Nẵng di tản với bao hãi hùng đã rơi vào tay địch, trận Khánh Dương với các chiến binh Dù được tải thương về bằng C130. Hắn đứng nhìn những thương binh được tải xuống từ những chiếc xe bus, những thương binh còn tự lo liệu đươc đã cố gắng lê lết trên những thân hình tàn tạ, bê bết máu hay cõng nhau để lên những chiếc GMC đưa về bệnh viện của đơn vị bên trại Hoàng Hoa Thám, những cánh tay mệt mỏi đưa ra xin hắn vài điếu thuốc.Hắn sót sa chia sẻ bao thuốc cuối cùng cho các chiến thương binh kém may mắn,hy vọng những điếu thuốc sẽ xoa dịu cho bạn đồng ngũ phần nào những đau đớn thể xác.
Rồi tin KQVN vừa thả xuống mặt trận Xuân Lộc hai trái bom CBU.55 đã tiêu diệt trọn vẹn hai sư đoàn Cộng quân làm mọi người phấn khởi. Nhưng rồi tin vui cũng như đốm lửa chợt bừng sáng rồi tắt lịm, Nha Trang thơ mộng không còn nữa, Bình Long, Biên Hòa cũng mất và giờ này thì căn cứ Tân Sơn nhất, cứ điểm sau cùng của quân lực VNCH chỉ còn là bãi chiến trường hoang vắng .Bước chân lang thang như một thói quen đưa hắn đến nhà người bạn đồng ngũ thân nhất gần căn cứ, ở đó đã có thêm một đồng ngũ ngồi ủ rũ, gặp nhau một cách đột ngột, cả ba đứa đột nhiên ôm chặt lấy nhau cùng òa lên khóc, bọn hắn khóc nức nở như những đứa trẻ thơ, như chưa bao giờ được khóc dù chưa kịp nói được một lời hỏi han.
Sau cùng thì cũng là những trao đổi xem ai còn, ai mất. Chợt nhận ra cây M16 hắn còn đeo trên vai, bạn hắn nói: “ mày điên hay sao mà giờ này còn mang súng? , bọn khốn nạn đó thấy sẽ giết mày không thương tiếc đâu”. Hắn cười, nụ cười khinh bạc, héo hắt : “ có lẽ chết giờ này sướng hơn sống”.Giã từ bạn đồng ngũ, hắn lê thân xác nặng nề trên đường phố hoang vắng,đâu đó vẫn lẻ tẻ những tiếng súng cầm cự của lưc lượng Biệt Kích không chịu buông súng đầu hàng một cách nhục nhã. Biết đi về đâu ? Định mệnh tàn ác vừa chụp lên đầu hắn và nhiều triệu dân miền Nam Viêt Nam những ngày đen tối nhất.
==> Viết lại tâm trạng của người lính thất trận 
(*) AC119 : Môt. Loại phi cơ vận tải được cải biến , trang bị với nhiều đại liên 6 nòng hai bên thân phi cơ, mỗi khẩu đại liên có khả năng bắn ra 6,000 viên đạn trong một phút, dùng để chống chiến thuật biển người của địch.

Friday, April 27, 2018

60 năm Sài Gòn, hồn ở đâu bây giờ?

 Thương xá Tax.
Nhớ, nhớ đến từng chi tiết từ cái bước chân đầu tiên đặt lên đất Sài Thành, nhớ từng ngõ ngách, từng nhân vật thuộc về quá khứ ấy cho đến ngày nay. Mặc cho Sài Gòn đã có nhiều tang thương dâu biển, từ cái tên thành phố đến những con đường đã thay họ đổi tên, từ con người đến xã hội cho đến cả cái cách sống cũng đã khác xưa nhiều lắm.

Bước chân đầu tiên trên đất Sài Gòn

Thế mà 60 năm rồi đấy, kể từ ngày tôi mới đặt chân lên thành phố Sài Gòn. Tôi nhớ như in, ngày đầu tiên ấy. Cuối tháng 1 năm 1954, sau hai tháng học ở Trường Sĩ Quan Thủ Đức, ngày thứ bảy chúng tôi được đi phép ở Sài Gòn. Niềm mơ ước của tôi từ những ngày còn nhỏ ở trường trung học, ước gì có ngày mình được vào Sài Gòn. Niềm mơ ước ấy còn rộn ràng hơn khi khóa học sĩ quan khai giảng.
Thủ Đức – Sài Gòn chỉ có hơn 10 cây số, tuy chỉ cách thành phố rất gần nhưng theo đúng chương trình khóa học, hai tháng sau chúng tôi mới được đi phép. Mấy anh “Bắc Kỳ” nôn nao hỏi thăm mấy ông bạn “Nam Kỳ” về Sài Gòn, từ cái xe taxi nó ra sao, đi thế nào, bởi hồi đó miền Bắc chưa hề có taxi, cho đến Chợ Lớn có những gì… Mấy ông bạn Nam Kỳ tha hồ tán dóc. Đầu óc tôi cứ lơ mơ về cái chuyến đi phép này.
Rồi ngày đi phép cũng đến, một nửa số sinh viên sĩ quan đi phép mặc bộ tenue sortie là ủi thẳng tắp, áo bốn túi, chemise trắng tính, thắt cravate đen đàng hoàng, giầy đánh bóng lộn có thể soi gương được. Vô phúc quên cái gì là bị phạt ở lại ngay. Nhưng hầu như chưa có anh nào bị phạt. Đoàn xe GMC của trường chở chúng tôi chạy vèo vèo vào thành phố. Ôi cái cửa ngõ vào thành phố hồi đó chưa có gì lộng lẫy mà chúng tôi cũng mở to mắt ra nhìn. Đoàn xe “diễu” qua vài con phố rồi dừng lại trên đường Hai Bà Trưng hồi đó còn gọi là đường Paul Blanchy, ngay phía sau Nhà Hát Lớn Thành Phố mà sau này là Trụ Sở Hạ Nghị Viện VNCH.
Cú nhảy từ sàn xe GMC xuống con đường Hai Bà Trưng là bước chân đầu tiên của tôi đến đất Sài Thành hoa lệ. Ông Hồ Trung Hậu là dân miền Nam chính hiệu, ông đã hứa hướng dẫn tôi đi chơi… cho khỏi “ngố”. Chúng tôi đi bộ vào con đường nhỏ bên hông Nhà Hát Thành Phố và khách sạn Continental, vòng ra trước bùng binh Catinat – Lê Lợi (hồi đó còn gọi là Boulevard Bonard) và Nhà hát thành phố. Nhìn mặt trước nhà hát thành phố có mấy bức tượng bà đầm cứ tưởng… mình ở bên Tây. Lúc đó đã có nhà hàng Givral rồi, nhưng tôi vẫn còn “kính nhi viễn chi” cái nhà hàng văn minh lịch sự giữa thành phố lớn rộng đó, chưa dám mơ bước chân vào.
Ông Hậu vẫy một cái taxi chở chúng tôi về nhà ông. Taxi hồi đó toàn là loại deux cheveaux, nhỏ hẹp sơn hai màu xanh vàng. Khi bước lên xe, đồng hồ con số chỉ là 0, đi quãng nào số tiền nhảy quãng đó, trong ngày đầu tiên, tôi ngu ngơ làm quen với không khí Sài Gòn qua gia đình anh em ông Hậu. Hôm sau ông bạn tôi đi với bồ nên tôi bắt đầu cuộc solo giữa thành phố xa lạ này. Tất cả sinh viên sĩ quan đều không được đi xe buýt hay xích lô, phải đi taxi. Nhưng lệnh là lệnh, chúng tôi học các đàn anh khóa trước, cởi áo bốn túi, bỏ cravate, cất cái nón đi là lại tha hồ vung vẩy.

Trở thành người Sài Gòn từ bao giờ

Nơi tôi đến đầu tiên là Chợ Lớn. Một cuốc taxi từ giữa trung tâm thành phố đến cuối Chợ Lớn mất 12 đồng. Tôi tìm đến khách sạn rẻ tiền của mấy thằng bạn Bắc Kỳ ở đường Tản Đà, một con phố nhỏ. Ba bốn thằng thuê chung một phòng cũng chẳng có “ông mã tà” nào hỏi đến. Chợ Lớn hồi đó tấp nập hơn ở Sài Gòn, con phố Đồng Khánh chi chít những khách sạn, hàng ăn, cửa tiệm tạp hóa lu bù tưởng như mua gì cũng có.
Sòng bạc lớn nhất đông nam á
Tấm biển Casino Grande Monde – Sòng bạc Đại Thế Giới.
Chúng tôi cũng biết cách chui vào Kim Chung Đại Thế Giới xem thiên hạ đánh bạc. Hôm đó có anh Nguyễn Trọng Bảo cùng Đại Đội tôi nhưng lớn hơn chúng tôi vài tuổi và là một cặp với Nguyễn Năng Tế (lúc đó mới là người yêu của nữ diễn viên điện ảnh Kiều Chinh). Anh thử đánh “tài xỉu”, may mắn làm sao, một lúc sau đó anh được khoảng vài trăm ngàn. Thế là chúng tôi xúi anh “ăn non”, không chơi nữa, rủ nhau đi ăn. Bắt đầu từ hôm đó chúng tôi đi “khám phá” Sài Gòn và rồi theo cùng năm tháng trở thành người Sài Gòn lúc nào không biết. Càng có nhiều thăng trầm chúng tôi càng gắn bó với Sài Gòn hơn.

Lần thứ hai trở lại Sài Gòn

Tôi lại nhớ ngày trở về Sài Gòn sau hơn 12 năm đi tù cải tạo từ Sơn La đến Vĩnh Phú rồi Hàm Tân. Đó là vào buổi chiều tháng 9 năm 1987 khi đoàn xe thả tù cải tạo bị giữ lại nhà giam Chí Hòa, nghe các ông quan chức trấn an về số phận chúng tôi khi được trở về,
Khoảng hơn 5 giờ chiều chúng tôi mới được thoát ra khỏi cánh cửa sắt nhà tù Chí Hòa. Ngay từ cổng trại tù đã có đoàn quay phim đợi sẵn để quay cảnh “vui mừng đoàn tụ” của tù nhân, chắc là để chứng tỏ cái sự “khoan hồng bác ái” của nhà nước cho những thằng may mắn không chết trong ngục tù. Lại là lần thứ hai tôi đặt chân lên đất Sài Gòn nhưng với tư cách khác giữa một thành phố đã đổi chủ, Thấy cái cảnh sẽ bị quay phim, Trần Dạ Từ kéo tôi lên vỉa hè đi lẫn trong đám thân nhân được vận động ra đón tù cùng những người dân tò mò nhình “cảnh lạ”. Tránh được cái máy quay phim, chúng tôi đi gần như chạy ra khỏi con phố nhỏ này.
Ra đến đường Lê Văn Duyệt, chúng tôi đi chậm lại, nhìn đường phố mà cứ thấy đường phố đang nhìn chúng tôi với một vẻ xa lạ và xót thương? Trần Dạ Từ còn lại ít tiền, anh rủ tôi ghé vào đường Hiền Vương ăn phở. Chẳng biết là bao nhiêu năm mới lại được ăn tô phở Hiền Vương đây. Tôi chọn quán phở ngay sát cạnh tiệm cắt tóc Đàm mà mấy chục năm tôi cùng nhiều bạn bè vẫn thường đến cắt tóc. Có lẽ Trần Dạ Từ hiểu rằng anh về đoàn tụ cùng gia đình chứ còn tôi, vợ con đi hết, nhà cửa chẳng còn, sẽ rất cô đơn, nên anh níu tôi lại. Ngồi ăn tô phở tưởng ngon mà thấy đắng vì thật ra cho đến lúc đó tôi chưa biết sống ra sao giữa thành phố này.
Ở tiệm phở bước ra, chúng tôi đi bên nhau dưới ánh đèn chập choạng của con đường Duy Tân mà Phạm Duy gọi là con đường Đại Học “uống ly chanh đường, uống môi em ngọt.” Đến ngã tư Phan Đình Phùng, tôi chia tay người bạn tù Trần Dạ Từ, đi lang thang trong cô đơn, trong bóng tối của chính đời mình. Bây giờ tôi mới hiểu hết nghĩa của sự cô đơn là thế nào. Tôi bắt đầu cuộc sống lưu lạc trên chính quê hương mình. Tôi tìm về nhà ông anh rể đã từng nuôi nấng tôi suốt những năm tháng trong tù. Bắt đầu từ đó tôi trở thành người Sài Gòn khác trước.
Và rồi với những cùng khổ, những khó khăn, tôi đã tự mình đứng lên. Bởi tôi thấm thía rằng thằng bạn đồng minh xỏ lá đã phản phé mình, lúc này không ai cứu mình cả, anh không vượt qua nó, nó sẽ đè chết anh. Vì thế cho đến bây giờ sống giữa Sài Gòn, tôi phải là người Sài Gòn và mãi mãi sẽ là người Sài Gòn. Làm được cái gì hay chết bẹp dí là do mình thôi.
Tôi không lan man về chuyện cũ tích xưa nữa, bởi nói tới những ngày tháng đó chẳng biết bao giờ mới đủ. Cho đến hôm nay, 25 tháng 8 năm 2014, hơn 60 năm ở Sài Gòn, mọi người đang xôn xao về những đổi thay lớn của Sài Gòn, tôi không thể ngồi yên. Tôi muốn chính mắt mình được nhìn thấy những thay đổi ấy. Mặc dù qua 2 lần nằm bệnh viện và với cái tuổi trên tám mươi, tôi đã mất sức nhiều, hầu như suốt ngày ngồi nhà đã từ ba tháng nay.
Tôi điện thoại cho Thanh Sài Gòn rủ anh đi thăm “cảnh cũ người xưa”. Chúng tôi vào phở Hòa, một tiệm phở nổi tiếng từ trước năm 1975 cho đến nay. Con đường Pasteur đan kín xe cộ, tiệm phở Hòa có vẻ tấp nập hơn xưa. Bạn khó có thể tìm lại một chút gì đó của “muôn năm cũ”. Tô phở bị “Mỹ hóa” vì cái tô to chình ình và miếng thịt cũng to tướng, có lẽ ông bà chủ đã học theo phong cách những tiệm phở Việt Nam ở Mỹ. Nó “to khỏe” chứ không còn cái vẻ “thanh cảnh” như xưa nữa.
60 năm Sài Gòn, hồn ở đâu bây giờ?
Đường Pasteur xưa.
Sau đó, nơi tôi tìm đến đầu tiên chính là Thương Xá Tax. Vừa đến đầu hai con đường gặp nhau Pasteur – Lê Lợi đã nhìn thấy một hàng rào bằng tôn chạy dài. Đường Lê Lợi chỉ còn đủ một lối đi nhỏ dẫn đến Thương Xá Tax và công viên Lam Sơn. Chiếc xe gắn máy len lỏi cho đến tận cuối đường Lê Lợi sát mép đường Tự Do. Chúng tôi đứng trước cửa TX Tax đang bày ra cảnh vô cùng vắng vẻ, chỉ có tôi và anh bảo vệ nhìn nhau. Anh thừa biết tôi đến đây để làm gì. Anh bảo vệ cũng không còn làm cái nhiệm vụ cao quý là mở cửa đón khách, anh để mặc tôi tự do đẩy cánh cửa kính nặng chịch đi vào trong khu thương mại. Đèn đuốc vẫn thắp sáng choang, chiếc thang máy cuốn vẫn lặng lẽ chạy không một bóng người. Nó mang một vẻ gì như người ta vẫn lặng lẽ theo sau một đám tang. Trong quầy hàng đầu tiên, điều khiến tôi chú ý là hàng chữ nổi bật hàng đại hạ giá (Big Sale) tới 70% đỏ loét chạy dài theo quầy hàng và hàng chữ “Tạm biệt thương xá Tax”.
Tôi cố gợi chuyện với cô chủ hàng xinh xắn: Cô phải đề là “Từ biệt thương xá Tax mới đúng chứ, sao lại là Tạm Biệt?” Cô hàng trẻ đẹp thở dài ngao ngán: “Ấy người ta còn hứa khi nào căn nhà 40 tầng làm xong sẽ cho chúng tôi được ưu tiên thuê cửa hàng đấy.” Nhưng ngay sau đó cô lại lắc đầu: “Hứa là hứa chứ khi đó mình không cổ cánh, đút lót thì đừng hòng bén mảng tới, ông có tin không?”
Bị hỏi ngược, tôi đâm lúng túng ấp úng nói lảng: “Phải đợi tới lúc đó mới biết được.” Cô bán hàng quay đi, dường như cô chẳng tin gì cả.
Các quầy hàng khác vẫn mở cửa, mỗi gian hàng chỉ còn lại vài ba người, chắc toàn là những ông bà chủ. Tôi nghĩ họ đang làm công việc khác chứ không để bán hàng. Có ai mua đâu mà bán. Tôi đến hỏi thăm vài ông bà chủ cửa hàng, không tìm thấy bất cứ nụ cười nào trên những khuôn mặt buồn hiu ấy.
Có lẽ vài tuần nay, người đi tìm đồ hạ giá đã “khuân” đi khá nhiều rồi, lúc này những thứ hàng còn lại không còn giá trị nữa. Tuy nhiên cửa hàng nào cũng còn bề bộn hàng ế. Nhìn lên tầng lầu cũng vậy, nó còn vắng vẻ thê thảm hơn.
Tôi bước lên mấy bậc của bục gỗ, ghé vào một tiệm bán máy hình còn nguyên si bởi ông chủ quyết không giảm giá. Tôi hỏi lý do, ông có vẻ liều:
– Thà ế chứ không giảm.
Tôi lại tò mò hỏi tiếp:
– Vậy là ông có một cửa hàng ở nơi khác nữa?
Ông lắc đầu:
– Không.
Tôi hỏi:
-Vậy ông sẽ làm gì?
Câu trả lời của ông cụt lủn:
– Về quê làm ruộng.
Tôi yên lặng trước sự bất bình đó. Đứng nhìn hàng loạt máy hình, máy quay phim đủ loại còn nằm rất thứ tự trong tủ kính sáng bóng. Tôi lại hỏi:
– Chắc họ phải đền bù cho ông những thiệt hại này chứ?
– Chưa có xu nào cả. Thời hạn bắt di dời nhanh quá, trở tay không kịp.
Tôi nghĩ chắc ông này cũng chỉ là người đi thuê lại cửa hàng của một ông nhà giàu nào đó mà thôi, ông có vẻ bất cần đời. Tôi từ giã, ông chỉ gật đầu nhẹ.
Nhìn sang hàng loạt cửa hàng vàng bạc đá quý gần như vẫn còn nằm nguyên vẹn và không một bóng khách vãng lai. Các bà, các cô tha hồ nhìn nhau ăn cơm hộp. Tôi có cảm tưởng một thành phố chết vì chiến tranh gần kề hay vì một nạn dịch nào đó.
Vậy mà tôi vẫn còn đi vơ vẩn trong cái không gian như nghĩa trang sống đó. Tôi đi tìm hình bóng của một thời dĩ vãng, nào vợ con, nào bè bạn, nào những người xa lạ trong cái nhịp thở rộn ràng thân thiện của tất cả Sài Gòn xưa ở chốn này. Chẳng bao giờ trở lại. Tôi muốn gọi tên tất cả trong hoài niệm tận cùng sâu lắng.

Ngậm ngùi nhìn công viên Lam Sơn trống rỗng

Rồi tôi cũng phải bước ra. Trở về với thực tại, nhưng vẫn gặp cái vắng lặng của vỉa hè chạy dài theo đại lộ Nguyễn Huệ. Dường như chỉ còn có Thanh Sài Gòn ngồi ngất ngư với “người xưa trong ảnh” của một ô quảng cáo vuông vắn phía ngoài thương xá.
Chúng tôi đi qua khu công viên Lam Sơn, lúc này đã được phá sạch, chỉ còn vài cây cổ thụ cao lêu nghêu bên cạnh “công trường” đang làm, dường như hàng cây đứng chờ giờ hành quyết như các “đồng nghiệp” của nó đã bị đốn hạ vài hôm trước. Các bác thợ quần áo xanh, dây đeo chằng chịt đã và đang dọn dẹp cho công trường trống rỗng. Tôi đứng trước Nhà Hát Thành Phố nhìn cảnh “vườn không nhà trống” đó mà ngậm ngùi nhớ tới pho tượng Thủy Quân Lục Chiến sừng sững đứng bảo vệ thành phố ngày nào và nhớ tới những đồng đội Thủy Quân Lục Chiến đã ngã xuống hoặc giờ này đã ở khắp phương trời xa.
60 năm Sài Gòn, hồn ở đâu bây giờ?
Pho tượng Thủy Quân Lục Chiến.
Chắc hẳn bạn còn nhớ ngay cạnh đó là góc bùng binh Nguyễn Huệ – Lê Lợi còn là nơi tổ chức đường hoa vào dịp Tết. Gia đình nào chẳng một lần kéo nhau đi giữa đường hoa với tâm trạng rộn ràng của một ngày hội hoa xuân. Từ năm nay sẽ mất hẳn, chẳng bao giờ thấy bóng dáng mùa xuân ở đây nữa.
Cuối cùng tôi trở lại nơi mà lần đầu tiên tôi đặt chân lên thành phố Sài Gòn. Tôi đã nhảy xuống xe GMC ở đây, đúng nơi này, phía sau Nhà Hát Thành Phố, bây giờ là trụ sở của Tổng Công Ty Cấp Nước của thành phố. Mặt đường nhựa chẳng có gì thay đổi, nó cũng nhẵn mòn như những con đường nhựa khác, nhưng với tôi nó là một dấu son đáng nhớ nhất trong đời. Vậy mà đã đúng 60 năm rồi sao?
Mai này Sài Gòn sẽ còn mất đi nhiều thứ nữa như vòng xoay trước cửa Chợ Bến Thành, một biểu tượng mà bất cứ ai đã đến Sài Gòn dù chỉ một lần cũng không thể nào quên. Đó là những thứ sẽ mất đi để làm tuyến metro số 1 Bến Thành – Suối Tiên. Ngoài tuyến metro số 1, còn xây dựng thêm 6 tuyến metro khác. Chúng ta sẽ mất đi nhiều di tích xưa cũ. Sài Gòn sẽ đổi khác rất nhiều, để lại trong người Sài Gòn dù ở đâu cũng thấy cảm thấy một nỗi bùi ngùi, nhớ tiếc. 60 năm Sài Gòn, hồn ở đâu bây giờ?
Tác giả: Văn Quang Chỉnh sửa và tổng hợp theo Saigonxua.org và Fanpage Saigonxua

“Sống Chẳng Còn Quê”. BS Trần Xuân Dũng

 Bác Sĩ Dũng lúc thăng cấp Thiếu Tá
Tuần trước, tôi có dịp hàn huyên với Bác sĩ Trần Xuân Dũng và đã được ông tặng bản in đặc biệt của cuốn Hồi Ký của ông với tựa đề “Sống Chẳng Còn Quê”.
Cuốn tự truyện của Bác sĩ Dũng dầy 685 trang (A5), bìa trước in hình Quê cũ của ông, với căn nhà gỗ phên nứa, có dàn mướp leo trước nhà, bìa sau là hình ảnh “Quê Người” đang độ vào Thu với cây sồi lá đã đổi qua mầu vàng rực rỡ.
Tôi đã đọc nhiều Sách, nhiều Tiểu Thuyết, nhiều Hồi Ký, cuốn nào cũng dầy, cũng có hình ảnh, trung bình là khoảng 400 trang, ít khi có một nhà văn, nhà thơ nào dám viết, dám in một cuốn sách dầy trên 500 trang. Vậy mà Bác sĩ Dũng dám viết, dám in một cuốn Hồi Ký 685 trang (chưa kể hai trang bìa)!

3. Quê Mới
Có người dám viết một cuốn Hồi ký 685 trang thì cũng có người dám đọc hết 685 trang hồi ký đó.
Tôi đọc liên tiếp năm đêm, đọc từng trang sách, xem từng tấm hình do gia đình cung cấp và do ông tự chụp. Tôi đọc say mê, đọc không sót một chữ, xem không thiếu một tấm hình nào cả, đọc nguyên cuốn trong suốt năm đêm liên tục.
Cuốn Hồi Ký này có gì đặc biệt mà tôi phải thức năm đêm liền để đọc, mà lại đọc say mê?
Bác Sĩ Dũng
Đó là vì cuốn Hồi Ký đã kể lại cuộc đời của ông từ khi ông mới sinh ra đời (1939) cho tới khi định cư ở Úc Đại Lợi từ năm 1978 cho tới nay, 2018.
Lịch sử Việt Nam cận đại với những biến chuyển quan trọng, từ lúc giao thời của Hoàng Đế Bảo Đại (1930), của Chính Phủ Lâm Thời của Trần Trọng Kim, của Việt Nam Quốc Dân Đảng, của Việt Nam Cách Mạng Đồng Minh Hội, nạn đói năm Ất Dậu, cho tới cuộc di cư vào Nam của hơn một triện người Việt nam, tới cuộc chiến tranh xâm lược của Việt Cộng và cuộc di cư lần thứ hai của người dân Việt 1975. . . tất cả đều gói ghém trong cuốn hồi ký này.
Do đó, tôi có thể nói, cuốn Hồi Ký của Bác sĩ Trần Xuân Dũng là một cuốn Lịch Sử Việt Nam Rút Gọn vậy.
Đó là lý do tôi đã đọc hết cuốn Hồi Ký, đọc từng trang, đọc say mê và giới thiệu với quý vị để cùng đọc cho vui, cho biết những biến chuyển lịch sử của nước nhà.
Ngoài cái việc làm Bác sĩ ra, Trần Xuân Dũng còn có gì đặc biệt hay không?
Nhiều lắm bạn ạ!
Điều đầu tiên mà tôi phục là, sau khi tốt nghiệp Y Khoa tại Sài Gòn năm 1965, được trưng tập làm Y Sĩ Tiền Tuyến (dân y trưng tập vào Lính), ông đã dám . . . Đăng Lính Thủy Quân Lục Chiến, làm Y Sĩ Trưởng cho Tiểu Đoàn 4, đóng tại Vũng Tầu.
Trận ra quân mở hàng của ông vào năm 1966 là ở ngay phía Tây của thành phố Sài Gòn, nhưng không phải là ở văn phòng, ở Quân Y Việt đâu, mà là ở ngay tuyến đầu Bà Hom của Tiểu Đoàn 4. Lính Thủy Quân Lục Chiến được trực thăng vận đổ quân xuống xã Vĩnh Lộc, hành quân tìm và diệt địch. Người Lính đánh tới đâu, bị thương ở chỗ nào, bất kể đó là nơi tuyến đầu hay lúc xung phong, là Y Sĩ Dũng và toán quân y của ông có mặt nơi đó để lo cho anh em được an toàn, để giữ lại mạng sống cho người Lính Thủy Quân Lục Chiến.
Rời chiến trường Vĩnh Lộc, tiểu Đoàn lại được trực thăng thẩy vào ngay giữa trận địa vùng Kinh Sáng và Kinh Ba Tà để tăng viện cho một tiểu đoàn Biệt Động Quân đang chạm địch từ tối hôm qua. Khi được lệnh đi tìm và cứu những thương binh Mũ Nâu, ông và toán quân y đi hết cánh đồng này tới cánh đồng khác, chỉ thấy xác chết của Lính Mũ Nâu chứ không có một thương binh nào cả. Y sĩ Dũng đã ôm máy truyền tin thảng thốt báo cáo:
“Trận chiến không có thương binh!”
Đúng vậy!
Nhưng có nghỉa là gì?
Nghỉa là, trước khi rút lui, bọn Việt Cộng đã dã man tàn sát tất cả những chiến binh Biệt Động Quân, dù là còn sống hay đã bị thương.
Có một Hạ Sĩ Biệt Động Quân chết gục trên khẩu Đại Liên M60, Y sĩ Dũng lật ngửa xác người Lính lên để xem còn cách nào cứu anh ta hay không: Trên cổ người Lính có mang sợi giây chuyền đeo chiếc thánh giá, bọn Việt cộng đã giết anh ta bằng cách bắn từng viên đạn lên ngực anh ta, bắn chéo thành hình Chữ Thập của cây thánh giá. Người Hạ sĩ đã bị bắn khoảng hàng chục viên đạn vào ngực và một phát vào đầu. Bị bắn kiểu này không phải là bị bắn trong lúc giao tranh, mà là bị hành hình! Chắc rằng, trong khi giao tranh, bọn Việt Cộng đã bị khẩu Đại Liên này giết nhiều lắm, cho nên khi anh đã bị trúng đạn ở đầu rồi, chúng đã nhào lên bắn thêm cả chục viên đạn vào xác người Lính Biệt Động để trả thù. Những xác chết khác, đều bị rất nhiều vết đạn ở trên người, chứng tỏ rằng, khi họ chỉ bị thương, còn sống, còn có thể chữa trị, nhưng bọn ác ôn côn đồ Việt cộng trước khi rút lui, đã tàn nhẫn bắn hàng loạt đạn vào thân hình những thương binh Biệt Động Quân để hủy diệt mạng sống của họ.
Rời Tiểu đoàn 4, ông được đổi về Tiểu đoàn 6, rồi Tiểu đoàn 3 và đến đầu năm 1968, ông được thăng cấp Y Sĩ Trưởng của Chiến Đoàn B Thủy Quân Lục Chiến để trở lại giải cứu Sài Gòn đang bị bọn Việt cộng tấn công vào dịp Tết Mậu Thân. Đúng ngày Mùng Một Tết (30/01/1968), chiến đoàn đổ quân xuống ngay Bộ Tổng Tham Mưu để từ đó hành quân diệt Cộng tại Trường Tổng Quản Trị, Sinh Ngữ Quân Đội, Chùa Ấn Quang, đường Nguyễn Duy Dương và Bà Hạt. Chính tại nơi này, Tiểu Đoàn 2 Thủy Quân Lục Chiến đã bắt được tên phiến loạn Bẩy Lém (Lốp). Tên này được coi là phiến loạn vì y không mặc quân phục của Cộng Sản Bắc Việt hoặc của Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam, mà đã dùng vũ khí bắt chết rất nhiều sĩ quan trong Trại Gia Binh, và nhất là y đã giết hại cả gia đình của Trung Tá Nguyễn Tuấn gồm hai vợ chồng và 6 đứa con nhỏ. Chính vì lý do này mà khi Thiếu tá Ngô Văn Định (Tiểu đoàn trưởng Tiểu Đoàn 2 TQLC) giao hắn lại cho Tướng Nguyễn Ngọc Loan, Tướng Loan đã xử bắn y ngay tại chỗ.

5. Bẩy Lớp
Thiếu Tá Ngô Văn Định (cầm súng Colt) đang dẫn tên Bẩy Lốp tới gặp Tướng Loan.

Một hôm, Chiến đoàn họp hành quân, Y Sĩ Trưởng của Chiến đoàn cũng được tham dự. Khi được biết pháo binh của TQLC sẽ bắn vào khu Đồng Ông Cộ trước khi các tiểu đoàn hành quân diệt đich, Y sĩ Dũng đã hốt hoảng ra mặt, vì đó là nơi cư ngụ của gia đình ông, ba mẹ và các anh em cháu của ông, làm sao bây giờ? Sau phiên họp, ông đã xin gặp riêng vị sĩ quan pháo bịnh, nói cho ông hay cớ sự và xin rằng:
“Anh rót cho khéo nhé, lỡ lầm vào nhà tôi,
Nhà tôi ở giữa vùng Đồng Ông Cộ,
Có dàn mướp đắng, có những người tôi thương . . .”
(Hồi đó, nhạc sĩ Anh Bằng chưa sáng tác bài Dàn Hoa Thiên Lý).
Quả thật, đạn pháo binh đã né nhà ông, cả nhà được yên lành.
Sau trận Mậu Thân, Y sĩ Trần Xuân Dũng được ân thưởng Anh Dũng Bội Tinh với Ngôi Sao Bạc.
Điều thứ Hai mà tôi phục là . . .Bác sĩ Dũng làm bác sĩ theo đúng lời thề của sư tổ Nghành Y Khoa (The Hippocratic Oath), chỉ chữa bệnh cho người có bệnh và giúp người chứ không cần kiếm nhiều tiền. Thì giờ còn lại, ông dùng để viết Sử Sách cho đời sau.
Ông nói với tôi một câu đáng nể:
“Người ta thường khoe với nhau: “Tôi có bốn năm căn nhà . . . tôi lái chiếc xe Mercedes ba bốn trăm ngàn . . . Đối với tôi thì lại khác, tôi chỉ có một căn nhà cho mẹ con chúng nó ở thôi, chạy xe thì tôi chạy chiếc Jeep (Vì đây là chiếc xe đầu tiên tôi được lái ở trận tiền, sau này mua xe, cũng chỉ xe Jeep mà thôi). Nhưng tôi đã viết được hai cuốn sách lưu lại cho hậu thế:
Chiến Sử Thủy Quân Lục Chiến và
Lịch Sử Quân Y Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa.
Để cho hậu thế biết rằng, ngày xưa, có một quốc gia tên là Việt Nam Cộng Hòa Tự Do Dân Chủ, được bảo vệ bởi một quân đội tên là Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Một trong những binh chủng xuất xắc của Quân Lực này là Thủy Quân Lục Chiến, họ được săn sóc bới những Y sĩ xuất xắc của Quân Y Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa.”
Hồi 1981 mới qua Úc, tôi xin làm thợ sơn xe cho hãng xe Nissan. Tôi cần việc làm nên nhận đại là mình biết sơn chứ đã có bao giờ tôi cầm tới cái chổi sơn đâu, nói chi sơn bằng máy. Vì chằng có nghề, nên cái máy sơn quần tôi thê thảm, mệt quá tôi nghỉ đại một vào ngày, tới bác sĩ Dũng xin cái giấy chứng nhận nghỉ bệnh.
Sở dĩ tôi tới ổng là vì, nghe nói ổng hồi xưa cũng là Lính, tức là . . . phe ta . . . tức là cũng có phần nào . . . Huynh Đệ Chi Binh giúp đỡ nhau. Đang ngồi chờ, gặp một thằng bạn đi ra, mặt mày buồn xo, nói với tôi:
“Tao nghỉ đi chơi hai bữa nay, tới xin ổng cái giấy chứng nhận có cảm cúm chút xíu để nộp cho hãng, ổng không những không cho mà còn lên lớp tao:
“Còn mạnh khỏe thì . . . cứ đi làm mà kiếm tiền, có bệnh thật thì tôi chứng, chứ đang khỏe mạnh như thế này, làm sao mà tôi ký giấy bệnh cho anh được.”
Tôi chia buồn với người bạn nhưng trong lòng cũng nổi lên ý kiến: Ông bác sĩ này cũng . . . ngon, có bịnh mới khám, không có bịnh thì đi chỗ khác chơi.
Tới phiên tôi, tôi khai đau tay quá, không dở lên nổi, bác sĩ Dũng nắm bắp tay tôi bóp nhẹ, tôi la làng vì đau, tức là có bịnh thiệt. Ông lấy cây đèn có ánh sáng mầu đỏ chiếu vào bắp thịt tay của tôi một hồi rồi cho thuốc giảm đau, rồi chứng nhận cho tôi cần nghỉ hai ngày. Trong khi viết toa, ông hỏi tôi hồi xưa ở Việt Nam làm gì? Tôi nói hồi xưa đăng Lính Biệt Động, ổng nói ổng cũng đăng Lính, Lính Thủy Quân Lục Chiến . . . thế là chúng tôi quen nhau.
Qua vài lần khám bệnh khác, mỗi lần nói vài câu xã giao, tôi mới biết ra là bác sĩ Dũng học cùng lớp, cùng trường Chu Văn An với anh Hiệp của tôi. Khi nhắc tới anh lớn của tôi, bác sĩ Dũng sáng mắt lên nhắc lại chuyện xưa:
“Tôi với anh Hiệp học chung với nhau từ Đệ Thất ở Chu Văn An, năm nào cũng một đứa bàn trên, một đứa bàn dưới cho đến Đệ Nhất. Vào trường Y, hai đứa cũng học chung với nhau, ra trường chọn đơn vị, anh Hiệp về Trung đội Lựa Thương Quảng Đức, tôi về Thủy Quân Lục Chiến.”
Vì anh là huynh trưởng của tôi (đi lính từ năm 1965), nay lại là bạn cùng lớp với anh cả của tôi nữa, nên từ đó, tôi gọi anh là Anh Dũng.
Trở lại cuốn hồi ký của bác sĩ Dũng,

 
Như tôi đã nói ở phần đầu, cuốn Hồi Ký của Bác sĩ Trần Xuân Dũng tạm được gọi là một cuốn Lịch Sử Việt Nam Cận Đại Rút Gọn, vậy chúng ta hãy cùng nhau . . . đi vào lịch sử mà anh bác sĩ Dũng đã gom lại trong cuốn hồi ký của ông, khởi hành từ Lạng Sơn, vùng giới tuyến địa đầu Việt Nam và Trung Cộng:

“Tôi sinh năm 1939 tại Làng Lý Nhân, Tỉnh Hà Nam . . . Ba tôi theo Tây Học. Cuối năm thứ tư bậc trung học, ba tôi thi đậu bằng Diplome, ông nộp đơn xin đi làm công chức sở hỏa xa và được gởi đi làm ở Nhà Ga Đồng Đăng. Nơi này rất nổi tiếng trong văn chương Việt Nam:
“Đồng Đăng có Phố Kỳ Lừa,
Có Nàng Tô Thị, có Chùa Tam Thanh . . .”
Ga Đồng Đăng
Ga Đồng Đăng
Từ trái qua phải, tòa nhà thứ hai là tòa nhà chính của Ga Đồng Đăng. Nửa bên phải của tầng trên là nơi chúng tôi cư ngụ (1942).

Đã có lần ba tôi đưa chúng tôi đi thăm Động Tam Thanh (Chùa Tam Thanh ở trong động Tam Thanh này). Chỉ nhớ rằng hôm đó trời rất nóng, nhưng bước vào trong động thấy mát rượi.
Giếng Tiên
Giếng Tiên.

Sau đó được đi thăm Giếng Tiên. Miệng giếng ngang với mặt đất, nước mấp mé gần miệng, ngồi xổm xuống có thể dùng một cái bát hay một cái gầu cũng múc nước được. Nếu nhiều người cùng dùng thùng liền tay múc nước, thì mực nước sẽ xuống, nhưng chỉ một hai phút sau nước lại lên cao gần miệng giếng như cữ. Vì thế người ta mới gọi là Giếng Tiên, không bao giờ cạn nước và không bao giờ tràn ra ngoài, đầy rồi thì thôi.
Đối với một cậu bé ba tuổi, nhớ được nhiêu đó chuyện là quá hay rồi.
nang-to-thi
Núi Vọng Phu có Nàng Tô Thị bồng con đứng chờ.
Từ những di tích mà anh Dũng còn nhớ, và theo nhiều trang mạng trên internet, chúng ta biết thêm rằng, trong quần thể núi đồi vùng Lạng Sơn, có một ngọn núi tên là Vọng Phu. Trên đỉnh núi này có một khối đá tự nhiên hình một người phụ nữ bồng con hướng nhìn về phương xa. Từ xưa tượng đá này đã gắn với truyền thuyết về một người con gái chung thuỷ đứng chờ chồng đi lính. Chờ mãi không thấy chồng về, nàng và con đã hoá thành đá, từ đó người dân gọi đây là tượng Nàng Tô Thị.
Ra khỏi Đồng Đăng, còn rất nhiều thứ gợi nhớ nhung, hoài niệm cho chúng ta: Quỷ Môn Quan, Ải Chi Lăng và cuối cùng là Ải Nam Quan.
Ở Đồng Đăng một thời gian, ba của anh Dũng được đổi về miền đồng bằng, đó là thị trấn Vinh của tỉnh Nghệ An.
Thành phố Vinh thật là yên tĩnh, đa số người dân đều di chuyển bằng cách đi bộ, cả tỉnh có hai chiếc xe đạp, xe hơi thì hầu như không có (thỉnh thoảng cũng có xe nhà binh của Pháp chạy ngang).
Biến cố súng đạn lớn nhất mà lần đầu tiên trong đời bác sĩ Dũng được chứng kiến xẩy ra vào ngày 9 tháng 3 năm 1945:
“Hôm đó là ngày 9 tháng 3 năm 1945, tôi đang ngồi trong cửa  sổ ăn quà sáng và nhìn ra đường.
Nghe tiếng xôn xao, tôi cũng đưa mắt nhìn ra đường: Mấy người lính Nhật đang ôm súng ngồi trên chỗ ghế của hành khách, còn những người đang kéo xe lại là những ông Tây. Cũng có cả một hai bà Đầm bị kéo xe có lính Nhật ngồi trên. Bọn lính Nhật cười nói huyên thuyên nhưng mắt vẫn theo dõi những người Pháp kéo xe.
Những người Pháp này, mới hôm qua đây, còn là những ông quan cai trị. Nhật vừa đảo chính Pháp được có vài tiếng đồng hồ trên toàn cõi Việt Nam. Bây giờ người Nhật đang lên voi, còn Pháp xuống chó.
Từ khi quân Nhật chiếm đóng vùng Đông Nam Á, nhiều người dân Việt tưởng rằng thời kỳ đô hộ của Pháp đã chấm dứt, chúng ta đã được độc lập tự do. Sự thật không phải như vậy, dân Việt vẫn phải chịu nhục đô hộ, nhưng thay vì bị người Pháp da trắng đô hộ, thì nay kẻ đô hộ chúng ta cũng là dân da vàng với nhau. Thay vì cùng là một mầu da, nhưng sự đô hộ của họ còn khắt khe và tàn nhẫn hơn nữa. Vì sự tàn bạo đó mà dân Việt đã gọi bọn họ là “Nhật Lùn”.
Tàn bạo hơn nữa, chúng còn bắt dân ta nhổ hết lúa lên để trồng đay, vì đay có nhiều chất sợi, bọn chúng cho chở về Nhật dệt thành vải may quần áo cho binh lính của họ. Nơi nào lúa đã chín thì họ tịch thu hết đem về Nhật. Ở miền Bắc, do thiên tai, lũ lụt, sâu bệnh . . . gây mất mùa. Đói kém lại thêm vào bệnh tật, bệnh dịch tả lan tràn khắp nơi, người chết không có ai chôn, nên đành đào những huyệt lớn bỏ hết những thân xác vào trong đó, đổ vôi lên rồi lấp đất chôn. Đó là nạn đói năm Ất Dậu, trong khoảng thời gian từ tháng 10 năm 1944 đến tháng 5 năm 1945, đã làm gần hai triệu người dân chết đói.
Nạn Đói Tại Việt Nam
Nạn đói này chấm dứt vào khoảng tháng 5 năm 1945, anh Dũng kể tiếp:
“Từ ngày 17 tháng Tư năm 1945, chính phủ Việt Nam đầu tiên được thành lập, do ông Trần Trọng Kim là thủ tướng. Mặc dù phương tiện và nhân lực hạn chế, thủ tướng Kim đã cố gắng cho chuyển gạo từ Nam ra Bắc để cứu đói, những nạn nhân còn sống sót được đưa vào những trung tâm cứu trợ để được săn sóc, thêm vào đó, vụ mùa tháng 5 1945 vừa đến lúc thu hoạch, dân chúng đã bắt đầu có gạo ăn.
Sau khi Mỹ ném hai quả bom nguyên tử xuống hai thành phố Hiroshima và Nagasaki của Nhật vào ngày 6 tháng Tám năm 1945, quân đội Nhật đã biến đi đâu hết, không còn thấy xuất hiên trên đường phố ở Vinh nữa.”
Đến khoảng giữa tháng Tám năm 1945, một sự kiện thứ hai đã xẩy ra trong cuộc đời của anh Dũng:
“Lúc đó vào khoảng 11 giờ sáng, một đoàn người mặc quần xóoc trắng ngồi trên xe đạp nối đuôi nhau, họ đạp từ phía nhà ga hướng về nhà tôi, tôi đếm được 15 người cả thẩy, mỗi người đều cầm một lá cờ đỏ sao vàng. Người dẫn đầu tay trái cầm một cái loa đưa lên miệng hô đi hô lại: “Ba giờ chiều nay, mời đồng bào đi ra sân vận động để dự cuộc mít tinh “.
Chẳng bao lâu, sau ngày 2 tháng 9 năm 1945, ai cũng biết đến một cái tên mới của Việt Nam: Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, do Hồ Chí Minh làm Chủ Tịch nước. Ở mọi nơi, từ công sở cho tới trường học, ngoài chợ và trong cả nhà dân nữa, đâu đâu cũng thấy treo hình ông này.
Chuyện gì phải đến, đã đến: Việt Minh thanh toán những đảng phái quốc gia đã từng cùng nhau cộng tác chống lại sự đô hộ của người Pháp. Đầu tiên là những đảng viên của Việt Nam Quốc Dân Đảng:
“Một hôm, một số Việt Minh vác loa đi khắp tỉnh, rao lên rằng:
Xin mờ đồng bào, mười giờ sáng mai, hãy tập trung tại cửa Tả để nghe xử án.”
Ngày hôm sau, anh Ninh (Trần Xuân Ninh) và tôi ra chỗ đã dặn để xem xử án. Lúc đó, anh Ninh được 9 tuổi và tôi 6 tuổi. chúng tôi đến sớm, nhưng đám đông đã đến sớm hơn, đang chờ sẵn bên đường. Phía trước chỗ chúng tôi đứng, có đóng sẵn hai cái cọc, cao chừng hai thước.
Đây rồi, một nhóm người đang tới, tám chín người đang dẫn hai người bị trói giật khuỷu tay ra đằng sau, mỗi người này đều được mặc một bộ quần áo trắng mới tinh.
Xử Án
Một người cầm loa nói to: “Xin đồng bào chú ý nghe xử án”
Một người khác cầm một tờ giấy đọc một hơi những điều gì đó tôi không hiểu, người này đọc câu chót: “Phải xử tử hai tên Trần Văn Cống và Tống Gia Liêm này. Chúng là Việt Nam Quốc Dân Đảng.”
Anh ta hất hàm ra hiệu. Mấy người trong bọn xông lại, kéo hai người đó trói vào hai cây cột đã đóng sẵn. Xong, chúng dùng hai miếng vải trắng bịt mắt hai người lại.
Sáu người cầm súng tiến ra phía trước . . .
Người chỉ huy hô to: “Bắn”
Trên bộ quần áo trắng của hai người bị trói, nhiều khoảng máu đỏ tươi lan ra nhanh . . .
Một số người đứng xem vùng bỏ chạy, sô đẩy nhau . . .
Kể từ đó, mối nguy hiểm xẩy ra cho mọi người dân Việt, gia đình anh Dũng cũng không ngoại lệ:
“Bỗng một hôm ba tôi bị Việt Minh bắt. Mợ tôi chẳng biết phải làm thế nào.
Riêng tôi rất lo sợ. Liệu ba tôi có bị bắt mặc một bộ quần áo trắng giống như hai người đã bị bắn không?
Đến ngày thứ tư, Việt Minh cho người đến nói rằng, ba tôi hiện bị giam trong nhà tù Vinh, người nhà mỗi ngày phải đem cơm vào nuôi người tù, ngày hai bữa.
Trưa hôm sau, mợ tôi bế Minh Nguyệt vừa mới sinh, anh Ninh bế Tường Vi, tôi xách một cà mèn cơm đi tới nhà tù.
Đến 12 giờ, một người dẫn ba tôi ra tới bên song cửa sắt. Ba tôi mặc bộ quần áo tù mầu xám, có số. Tôi mừng thầm vì thấy ba tôi không bị mặc bộ quần áo mầu trắng. Mợ tôi khóc, nước mắt ràn rụa. Ba tôi mếu máo, thò tay qua những song sắt xoa đầu chúng tôi. Ba mợ tôi nói chuyện với nhau được khoảng năm bẩy phút, người kia lại đến. Tôi đưa ca men cơm vào tay ba, người kia lôi ba tôi đi về phía trái, ba tôi cứ quay đầu lại, chúng tôi cố nhìn theo.”
Vận hạn đen đủi cứ theo đuổi gia đình họ Trần mãi, mợ anh đã phải bán hết tất cả đồ đạc trong nhà để lo cho ba anh được ra tù, tìm đường trốn về quê nội ở Hà Nam, người mẹ dẫn đàn con đi theo sau.
Đói khổ, bệnh hoạn, mợ của anh dẫn đàn con về tới quê nội thì kiệt sức, đứa con gái mới sinh chết vì mẹ không có sữa cho con bú, mẹ chết vì kiệt sức. 
Không còn cách nào sống, người cha phải liều chết đưa ba đứa con chạy giữa hai lằn đạn của Pháp và Việt minh, may mắn về tới Hà Nội. 
 Cuộc sống của ba cha con khá hơn được một chút, ba anh tìm được việc làm, ba anh em của anh đều được đi học trở lại cho tới năm 1954, ba anh lại một lần nữa dẫn ba đứa con bỏ quê nội ở Hà Nam để lên đường vào Nam tìm tự do.
Ba anh gởi ba anh em cho người chú để đi theo đoàn quân của ông lên máy bay vào Nam, còn ông ở lại làm việc ở nhà ga xe hỏa tới ngày cuối cùng của cuộc di cư, ông mới cùng toán hỏa xa vào Nam năm 1954.
Hai anh em đều được nhận vào trường Chu Văn An, anh Trần Xuân Ninh vào lớp Đệ Nhị, còn Trần Xuân Dũng vào lớp Đệ Tứ.
Học xong trung học, anh Ninh tính cùng với mấy người bạn vào Không Quân, nhưng cuối cùng anh đổi ý học Y Khoa.
Anh Dũng, sau khi đậu Tú Tài II, định học luật, rồi Dược, cuối cùng vẫn không biết nên học môn gì. Anh Ninh xúi vào:
“Thế thì mày cũng vào học Y giống tao đi!”
Thế là anh Dũng ngày ngày đạp xe đạp từ Đồng Ông Cộ tới trường Đại Học Y Khoa để học, trở thành bác sĩ. 
Ra trường, khi chọn đơn vị, anh nhìn tới nhìn lui, những chỗ nào có Chữ Phúc, chữ  Lộc, chữ Thọ, đều có đứa chọn hết rồi, anh nhớ tới câu ca dao mà bà nội đã thường đọc:
“Làm Trai cho đáng nên Trai,
Xuống Đông, Đông tịnh, lên Đoài, Đoài tan”
Anh Dũng đứng thẳng người đưa tay lên cao, xin gia nhập đơn vị Thủy Quân Lục Chiến.
Người Y sĩ khi gia nhập quân đội, cũng chịu hiểm nguy và chết chóc y như một người lính bình thường. Mặc dù nhiệm vụ của họ chỉ là cứu thương, được đơn vị hành quân bảo vệ nên đỡ phần nguy hiểm, tuy nhiên, cũng vì được bảo vệ, nên trong trường hợp bộ chỉ huy bị tấn công, họ khó bề tự mình chống trả, vì không đủ vũ khí cá nhân bên cạnh và cũng không được huấn luyện để chiến đấu như một người lính.
Một khi tình nguyện gia nhập những đơn vị thiện chiến và chuyên nghiệp, như Nhẩy Dù và Thủy Quân Lục Chiến, vì mức độ nguy hiểm, thương vong của đơn vị này cao hơn so với các đơn vị khác, do đó, mỗi tiểu đoàn có một Y sĩ và 1 trung đội quân y. Khi tiểu đoàn đi hành quân, Y sĩ cũng phải đi theo.
Nếu chọn những đơn vị bộ binh, vì mức độ nguy hiểm và thương vong của đơn vị này thấp hơn, nên mỗi Trung đoàn (3 tiểu đoàn chiến đấu) mới có một Y sĩ và một trung đội quân y. và chỉ khi nào cả trung đoàn đi hành quân, Y sĩ mới đi theo mà thôi.
Riêng đối với Biệt Động Quân, mặc dù cũng là đơn vị thiện chiến và chuyên nghiệp, nhưng vì từ lúc khởi đầu, Biệt Động Quân được tổ chức theo phương thức gọn, nhẹ, nên mỗi tiểu đoàn chỉ có 3 đại đội tác chiến, do đó, ở cấp Liên đoàn (3 tiểu đoàn) mới có một Y sĩ.
Thủy Quân Lục Chiến cấp tiểu đoàn thường đi hành quân liên miên, cho nên Y sĩ Trần Xuân Dũng ít khi được ở nhà. Nhất là khi tiểu đoàn tham dự những trận đánh tiêu diệt Việt Cộng ở Sài Gòn và vùng ven đô, lính Cộng Hòa và Việt cộng đánh nhau bắn nhau ở khắp hang cùng ngõ hẻm, việc băng bó và di tản thương binh thật là khó khăn và nguy hiểm, và đám nằm vùng trú ẩn ở khắp mọi nơi, Y sĩ Dũng đã cố gắng làm tròn nhiệm vụ của mình, một Y sỉ Thủy Quân Lục Chiến.
Khi đã chọn đời Lính, nhất là Thủy Quân Lục Chiến, là phải chọn hiểm nguy, chấp nhận thương đau . . .
Một Là Xanh Cỏ - Hai là Đỏ Ngực.
Cũng vì chấp nhận hiểm nguy, nên sau trận Mậu Thân, Y sĩ Dũng đã được thăng cấp Đại úy và tưởng thưởng Anh Dũng Bội Tinh với Ngôi Sao Bạc vào ngày 1 tháng 11 năm  1968. Lúc đó anh đang giữ chức vụ Đại Đội Trưởng Đại Đội Quân Y của Chiến Đoàn B Thủy Quân Lục Chiến.
Với lòng nhiệt thành và ý chí làm việc không mệt mỏi, anh Dũng đã được cấp trên giao trọng trách lớn hơn nữa: Ngày 1/1/1969, Y Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn Quân Y, với cấp số 600 quân nhân, 14 y sĩ, 2 dược sĩ và 1 nha sĩ.
Với chức vụ này, một số người cho đó là nơi bổng lộc, nhưng Y sĩ Dũng chỉ biết làm việc, ai chăm chỉ, làm việc khá thì thăng thưởng, ai lười biếng thì khiển trách, không hế tơ hào công quỹ, không hề chọn phe phái. Cũng vì cách thức làm việc như vậy mà anh đã được kiêm nhiệm chức vụ Y sĩ trưởng của Sư Đoàn 2 Bộ Binh và vinh thăng  Thiếu Tá vào cuối năm 1970.
Đầu năm 1973, cục Quân Y chọn những y sĩ nhiều kinh nghiệm chiến trường trở về Trường Quân Y để truyền những kinh nghiệm xương máu đó cho các sinh viên quân y. Y sĩ Thiếu tá Trần Xuân Dũng đã được chọn làm Trưởng khoa huấn luyện, dưới sự điều hành của Y sĩ Đại tá Hoàng Cơ Lân của Binh chủng Nhẩy Dù. Hàng ngày, thiếu tá Dũng . . . đạp xe đạp từ Đồng Ông Cộ tới Trường Quân Y để làm việc.
 Đi làm mãi mới để dành được ít tiền, anh Dũng làm lễ Đại Đăng Khoa với cô gái miền Hội An, chẵng có nhẫn cỏ cho em mà cũng chẳng có tuần trăng mật gì cả, vì . . . nghèo quá. Y sĩ Thiếu tá nhà ta chỉ biết làm việc cho quân đội chứ không biết kiếm tiền, đến nỗi một bạn đồng nghiệp đã phải . . . bắt anh làm thêm giờ:
“Anh là bác sĩ, lại vừa cưới vợ nữa, nghèo quá . . . không nên. Ba tôi có một căn nhà ở khu tứ thị, đã cho thuê nhưng còn trống một phòng, nếu anh chịu mở phòng mạch ở đó, ba tôi rất vui lỏng cho anh làm, không lấy tiền mướn gì cả, anh muốn làm tới bao lâu thì làm.
Nhờ thế mà bác sĩ Dũng mới có đủ tiền nuôi vợ nuôi con và mua được chiếc xe gắn máy, khỏi còng lưng đạp xe đạp nữa.
Đến ngày 30 tháng Tư 1975, Y sĩ Thiếu tá Trần Xuân Dũng vẫn còn tử thủ ở Trường Quân Y với những sinh viên quân y còn lại.
Sau đó, cũng như những người lính bại trận khác, anh Dũng khăn gói đi tù cải tạo. Lúc đầu, cứ tưởng là chỉ đi 10 ngày thôi, ai dè bị tù suốt mùa lệ thủy, mãi tới năm 1977, do nhu cầu dân chết nhiều quá không có ai cứu chữa, anh mới được thả về. 

Quà Kỷ Niệm
Quà kỷ niệm do tù cải tạo Dũng làm tặng cho con gái.

Một hôm, có một bệnh nhân bị nghẹt thở chở gấp vào nhà thương, bác sĩ Dũng khám bệnh, biết ngay là cô bị bệnh xuyễn, anh cho chích thuốc hạ đàm, một lúc sau cô tỉnh lại, cám ơn thật nhiều, nói rằng, trước đây, cô cũng lên cơn xuyễn, đã được đưa tới bệnh viện này nhiều lần nhưng bác sĩ giải phóng chỉ cho uông xuyên tâm liên thôi, nên không khỏi.
Mấy lần sau nữa, cô cũng cứ lên cơn, lại được chở vào bệnh viện và lại được bác sĩ Dũng cứu qua khỏi cơn bệnh. Buồn vì cơn bệnh ngặt nghèo của mình, cô gái hỏi:
-“Thưa bác sĩ, em cứ bị lên cơn xuyễn hoài, có cách nào chữa hết bịnh luôn được không?”
-“Họa chăng ra ngoại quốc, họ có thuốc tốt hơn, có cách trị liệu giỏi hơn, sẽ dứt bệnh luôn.”
Mấy ngày hôm sau, cô trở lại nói nhỏ:
-“Má em có tổ chức vượt biên, đồng ý cho bác sĩ đi theo không tốn tiền, nhưng nếu gia đình đi theo, mỗi người phải trả 2 cây.”
Bác sĩ Dũng nghèo rách mồng tơi, một chỉ vàng cũng không có, nói chi 6 cây vàng cho vợ và hai đứa con. Buồn quá, anh xách bị thuốc xuyễn tới nhà cô gái, nói với mẹ cô:
-“Tôi không có tiền nên không thể đi cùng với cô được, chúc bà thượng lộ bình an, tôi còn ít thuốc đây tặng cho cô gái, mỗi khi lên cơn, cô nhờ người khác chích cho một mũi sẽ khỏi. Còn đây là những thứ thuốc trụ sinh mà tôi đã để dành được, mua được, bà cứ đem theo để khi cần tới sẽ có mà dùng.”
Anh ra về được một quãng đường thì cô gái chạy theo, nói “Má em mời bác sĩ trở lại nói chuyện.”
Trở lại nhà,  bà má ngồi đi văng nói với anh:
-“Thuốc trị bịnh xuyễn và mấy thứ thuốc trụ sinh này đắt như vàng, có tiền kiếm mua cũng không có, vậy mà bác sĩ dám đem hết ra tặng cho tôi, thì tôi tiếc gì vài cây vàng. Tôi đồng ý cho gia đình bác sĩ đi theo đó, không phải trả tôi cây nào hết.”
Thế là vợ chồng và hai cô con gái lên ghe đi vượt biên.
Chiếc tầu vượt biên nhỏ xíu, người chủ tầu ngồi sau đuôi cầm bánh lái, người em làm tài công và hoa tiêu nhắm hướng là . . . bác sĩ Dũng.
Ấy vậy mà hoa tiêu “Dỏm” Trần Xuân Dũng cũng điều khiển chiếc ghe tới được đảo Sungei Besi của Mã Lai.

Con Tầu Tỵ Nạn
Bác sĩ Dũng và gia đình được nhận định cư ở Úc và đến thành phố Melbourne vào ngày 13 tháng Tám năm 1978.
Thời gian đầu, hai vợ chồng nhận hàng may về nhà làm, anh Dũng ráng học thi lại bằng tương đương và hành nghề Bác Sĩ tại số 146 Hopkins street, Fooscray,Vic 3011, Australia từ đó tới nay.
Thưa quý độc giả, quý chiến hữu, nhất là những Thủy Quân Lục Chiến,
Nhân ngày Quốc Hận 30 tháng Tư sắp tới, tôi giới thiệu tới quý vị cuốn hồi ký “Sống Chẳng Còn Quê” của Y sĩ Thiếu Tá Trần Xuân Dũng để chúng ta cùng đọc, cùng nhớ về quá khứ.
Nếu con, cháu chúng ta có hỏi về lý do nào mà người Việt Nam lại có mặt ở Úc, Mỹ, Canada và ở khắp nơi trên thế giới, ngoại trừ Việt Nam, hãy kể lại cho con cháu chúng ta rằng:
“Ngày xưa . . . trên bản đồ thế giới, có một Quốc Gia tên là Việt Nam Cộng Hòa. Quốc gia này có một quân đội gọi là Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Quân lực này đã chiến đấu chống lại bọn Cộng sản.
Hãy đưa cho con cháu chúng ta xem những cuốn sách nói về  cuộc chiến đấu của Quân lực này, trong đó có những cuốn sách Chiến Sử Thủy Quân Lục Chiến, Quân Y Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa và Hồi ký “Sống Chẳng Còn Quê” của bác sĩ Dũng, để các thế hệ sau này biết được chúng ta, những người Lính của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa đã chiến đấu giữ gìn Tổ Quốc ra sao.




Cả Gia Đình

Giá bán của cuốn Hồi ký là AUS $30.00 hoặc 
US $25.00
Quý đồng hương ở Victoria có thể đến ngay địa chỉ:
146 Hopkins street, Fooscray,Vic 3011,
Để nhận sách và giao tiền.
Ngoài tiểu bang Victoria, xin quý vị gởi Bank cheque $40 Úc kim, đề tên: 
Dr. Xuan  Dung Tran, gởi về địa chỉ 146 Hopkins street, Fooscray,Vic 3011, Australia.
Quý đồng hương ở Mỹ, Cananda và Âu châu, xin liên lạc với Miss Tuong Vi Tran  theo địa chỉ email:
để mua sách.
Tiền bán cuốn hồi ký này, anh Dũng sẽ dùng để viết và in những cuốn sách khác nữa cho chúng ta và những thế hệ tiếp theo đọc, chứ ông không dùng tiền đó để mua nhà đầu tư đâu. Có một căn nhà và chiếc xe Jeep chạy đâu cũng tới, là ông đã mãn nguyện lắm rồi.

Kính mời.
NGUYỄN KHẮP NƠI.