Những tấm ảnh xưa rất hiếm và đẹp về “Lăng Tả Quân Lê văn Duyệt (Bà
Chiểu) tại Sài Gòn, Lăng Ông – Bà Chiểu, nói vắn tắt là lăng Ông, có tên
chữ là Thượng Công miếu (Hán văn: 上公廟), đây là khu đền và mộ của Tả
quân Lê Văn Duyệt (1764-1832) hiện nay tọa lạc tại số 1 đường Vũ Tùng,
phường 1, quận Bình Thạnh, Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam.
__________________________
Lăng Ông Bà Chiểu rộng 18.500 m² trên một gò đất cao, nằm giữa bốn con
đường: Đinh Tiên Hoàng, Phan Đăng Lưu, Trịnh Hoài Đức và Vũ Tùng .. Lăng
nằm kế bên khu chợ Bà Chiểu nên mỗi khi nhắc đến tên chợ này là nghĩ
ngay đến lăng Ông, ất nhiều người nơi khác thường nhầm rằng đây là lăng
thờ ông và bà tên Chiểu, thật ra không phải như vậy, đây là lăng thờ ông
bà Lê Văn Duyệt và do lệ kiêng cữ tên không biết từ lúc nào người dân
đã ghép hai từ “lăng Ông” với hai từ “Bà Chiểu” để chỉ khu lăng của Tả
Quân ,theo cuốn sách năm xưa của cụ Vương Hồng Sến, tên Bà Chiểu là tên
vùng đất, chỉ mới xuất hiện thời vua Tự Ðức. Chiểu có nghĩa là ao nước
thiên nhiên, Bà Chiểu là nữ thần được thờ bên ao thiên nhiên. Ở Thủ Đức
cũng có vùng đất tên là Linh Chiểu
==>
1.Sơ lược kiến trúc
Chung quanh khu lăng có bức tường bao bọc dài 500m, cao 1,2 m được trổ
bốn cổng ra vào theo bốn hướng, được xây dựng vào năm 1948. Năm sau,
cổng Tam quan cũng được xây. Cổng có hàng đại tự nổi bằng chữ Hán Thượng
Công Miếu, được đặt ở hướng Nam, mở ra đường Vũ Tùng, thời Đệ Nhứt và
Đệ Nhị Cộng Hòa cổng này đã từng được chọn là biểu tượng của vùng Sài
Gòn-Gia Định xưa và khu lăng được xây dựng trên một trục đường chính. Từ
cổng Tam quan ở phía nam vào qua một khu vườn cảnh là: “Nhà bia nơi đặt
bia đá ghi công đức Tả quân – Mộ Tả quân và vợ, có bình phong và tường
hoa bao quanh Miếu thờ”
Nhà bia được xây dựng như một ngôi điện nhỏ, tường gạch, mái lợp ngói
âm dương. Bên trong có tấm bia đá khắc văn bia chữ Hán đề “Lê công miếu
bi” (Bia dựng tại miếu thờ Lê công) do Kinh lược sứ Hoàng Cao Khải viết
năm Giáp Ngọ (1894). Nội dung văn bia ca tụng công đức Lê Văn Duyệt đối
với triều đình và nhân dân ,toàn thể khu mộ đều được xây bằng một loại
vữa hợp chất ngoài ra phần mộ gồm hai ngôi mộ song táng: Tả quân và vợ
là bà Đỗ Thị Phận. Hai ngôi mộ đặt song song và được cấu tạo giống nhau,
có hình dạng như nửa quả trứng ngỗng xẻ theo chiều dọc, úp trên bệ lớn
hình chữ nhật. Trước mộ có một khoảnh sân nhỏ để làm lễ. Từ nơi nhà bia
nhìn vào, mộ Lê Văn Duyệt phía bên phải. Bao quanh mộ là một bức tường
bằng đá ong dày hình chữ nhật, thông ra tận sân đốt nhang đèn, ngoài ra,
ở đây còn hai phần mộ nhỏ của hai cô hầu cách khu lăng mộ một khoảng
sân rộng đến khu vực “Thượng công linh miếu”, nơi diễn ra các sinh hoạt
tín ngưỡng của nhân dân trong việc thờ cúng Lê Văn Duyệt. Bố cục của
miếu bao gồm tiền điện, trung điện và chính điện. Mỗi gian điện thờ cách
nhau bằng một khoảnh sân lộ thiên, gọi là sân thiên tỉnh (giếng trời).
Đối xứng hai bên trục nhà chính là hai dãy Đông lang và Tây lang, công
trình mang dấu ấn của lối kiến trúc miếu thờ nhà Nguyễn, với những mái
“trùng thiềm điệp ốc” và kỹ thuật kết nối khung nhà bằng các lỗ mộng.
Ngoài ra, nhờ kỹ thuật chạm khắc gỗ, chạm khắc đá, khảm sành sứ mà nơi
thờ cúng này còn giữ được vẻ đẹp cổ kính cho đến ngày nay.
2.Thân thế & sự nghiệp
Con người này ít học nhưng lạ lùng thay là có được cái nhìn cởi mở hơn
nhiều những đại thần và cả nhà vua học rộng, giàu kinh sử của Khổng
giáo. Ngài sống thanh liêm, muốn mở mang đất Gia Định này trù phú hơn
mọi quốc gia khác ở trong vùng biển Đông…
Lê Văn Duyệt (LVD) sinh năm Giáp Thân (1764) tại Cù Lao Hổ, cạnh vàm
Trà Lọt, nay thuộc làng Hòa Khánh, tỉnh Tiền Giang. Nội tổ là Lê Văn
Hiếu từ Quảng Ngãi đi vào Nam sinh sống. Sau khi ông Hiếu qua đời , cha
LVD là Lê Văn Toại và thân mẫu là Phúc Thị Hào… rời Trà Lọt đến ở tại
vùng Rạch Gầm, thuộc làng Long Hưng tỉnh Tiền Giang ngày nay, ông sinh
ra đã mang tật kín bẩm sinh (ái nam ái nữ). Thuở nhỏ ít chịu học hành mà
chỉ thích bắt chim, đánh cá, nhất là việc nuôi gà, đá gà và tụ tập các
trẻ trong làng, chia phe tập trận đánh giặc. (Sau này, ông còn là người
rất mê xem đấu hổ, đấu voi. Ngoài ra ông cũng là người sành thưởng thức
hát bội và thường tự tay cầm chầu), tương truyền ông khỏe mạnh, thông
minh, giỏi võ thuật, tuy không học nhiều, nhưng biết nhiều tuồng tích
Tàu .
Vì thế, ông luôn ước ao trở thành hào kiệt như trong truyện xưa miêu
tả; mới 15 tuổi, LVD đã nói “sinh ở đời loạn, không dựng cờ đánh trống
đại tướng, chép công danh vào sử sách không phải là trượng phu. “,năm
ông lên 17 tuổi, một cơ may đến với ông là, đêm hôm đó chúa Nguyễn Phúc
Ánh (NPA) bị quân nhà Tây Sơn đuổi gấp. Nhờ mưa to gió lớn thuyền của
đối phương không đuổi kịp, tưởng vậy đã yên, nào ngờ khi vừa đến vàm Trà
Lọt thì thuyền chở chúa bị sóng lớn làm cho suýt chìm. LVD xuất hiện
đúng lúc, cứu NPA thoát nạn. Biết là gặp dòng dõi chúa Nguyễn, cụ Lê Văn
Toại hết sức cung kính, cho tất cả tạm trú ở đây, nhân đó ông được NPA
tuyển dụng làm thái giám ,it lâu sau, LVD được phong làm cai cơ trông
coi nội binh. Từ năm 1789 ông bắt đầu đứng vào hàng tướng lãnh của chúa
Nguyễn. Năm 1793, LVD cùng với NPA đi đánh Qui Nhơn, lấy được phủ Diên
Khánh và phủ Bình Khương.
Tháng 1 năm 1801 ông cùng chúa và các tướng lãnh khác như Nguyễn Văn
Trương, Tống Phước Lương, Võ Di Nguy đánh chiếm cửa biển Thị Nại (trận
Thị Nại), khiến quân Tây Sơn thua to, tháng 4 NPA đem thủy quân ra Đà
Nẵng. Đến tháng 5 vào cửa Tư Dung, Lê Văn Duyệt phá được quân Tây Sơn,
bắt được phò mã Nguyễn Văn Trị và đô đốc Phan Văn Sách rồi vào cửa Eo.
Vua Cảnh Thịnh mang quân ra giữ cửa Eo nhưng thua phải chạy ra Bắc, ngày
3 tháng 5, NPA đem binh vào thành Phú Xuân. Tháng 5 năm 1802 chúa
Nguyễn lên ngôi, chọn đế hiệu: Gia Long. Vua phong ông là Khâm Sai
Chưởng Tả Quân Dinh Bình Tây Tướng Quân, lệnh cùng với Lê Chất mang quân
thâu phục Bắc Hà. Chỉ trong vòng một thời gian ngắn thì xong việc,
nhiều công lao lớn nên LVD được liệt vào hàng Đệ Nhất Khai Quốc Công
Thần, với đặc ân được vào chầu vua không phải lạy (nhập triều bất bái)
và được đặc quyền chém trước tâu sau (tiền trảm hậu tấu) nơi biên thùy,
nên sau này ông không chịu lạy vua Minh Mạng (MM) và đã giết Huỳnh Công
Lý, cha một quí phi của ông vua này, vì tội tham nhũng, và, ông còn là
người được vua Gia Long triệu vào cung hỏi ý kiến về việc chọn ngôi Thái
tử. ), tuy vua không nghe lời ông chọn con của Đông Cung Cảnh nối ngôi,
thay vì hoàng tử Đảm (là vua Minh Mạng sau này), nhưng ông vẫn phò tá
cho đến hết đời, mặc dù lòng không kính phục ông vua trẻ. Ngược lại, MM
cũng không ưa gì ông nhưng vẫn phải dùng đến, năm 1823 ông được Minh
Mạng ân thưởng ngọc đái với lời dụ: “Từ xưa hoàng tử, chư công chưa ai
được ân tứ ngọc đái này , nay khanh đã nhiều công lao nên đặc biệt ân tứ
vậy. ”
Xin Hết
Blog Saigon Xưa
No comments:
Post a Comment