Người Pháp sau khi chiếm Gia định thành năm 1859 ,họ xây dựng nhiều
cơ sở thương mại, làm đồn điền, xây dựng xưởng hãng, điều hành quản lý
guồng máy mới được thiết lập. Nhà hát thành phố được xây bởi công ty
kiến trúc của Félix Ollivier, Ernest Guichard và Eugène Ferret, với mặt
tiền của nhà hát giống tòa nhà Petit-Palais ở Paris. Ngày 1/1 năm 1900,
nhà hát được khánh thành với sự tham dự của hoàng tử Đan Mạch Prince
Waldemar. Sau nhiều năm tranh cãi, cuối cùng địa điểm và đề án xây tòa
thị sảnh thành phố được Hội đồng quản hạt chấp nhận. Tòa thị sảnh được
xây từ năm 1901 đến 1908 trên một vùng đất cao ở cuối đường Charner
(Nguyễn Huệ ngày nay), nhìn xuống tận đầu đường ở gần sông Sài Gòn.
Tháng 2 năm 1909, đúng 50 năm sau khi Pháp chiếm thành Sài Gòn, tòa thị
sảnh thành phố được khánh thành dưới sự hiện diện của toàn quyền Đông
Dương.
Ông Jean Bouchot, giám đốc đầu tiên của viện bảo tàng Musée Blanchard
de la Brosse (nay là viện bảo tàng lịch sử), trụ sở trong vườn bách
thảo, là người đầu tiên để ý đến các tư liệu liên quan đến lịch sử vùng
Sài Gòn. Các bài của ông trên Tạp chí của Hội nghiên cứu Đông dương
(Bulletin de la Société des études indochinoises) như “La naissance et
les premières années de Saïgon” là tư liệu quý về Sài Gòn trong giai
đoạn đầu lúc Pháp đến. Ông cũng là người khám phá ra mộ đá tiền sử ở
Xuân Lộc, tỉnh Biên Hòa (Đồng Nai).
Bảo tàng Blanchard de la Brosse thành lập vào năm 1929, còn gọi là
bảo tàng Hội nghiên cứu Đông dương. Ý định thành lập bảo tàng đã có từ
năm 1882 khi Hội đồng quản hạt đồng ý trên nguyên tắc qua đề nghị của
giáo sư Milne-Edwards. Hội Nghiên cứu Đông dương lúc này cần có một nơi
để lưu trữ tư liệu, hiện vật khảo cổ Khmer, Cham, etc… Trong thời gian
từ 1882 đến 1929, bảo tàng tạm thời phải di chuyển ở nhiều nơi, như mướn
một nhà (1904) ở 140 đường Pellerin (nay là Pasteur), ở số 16 rue
Lagrandière (Lý Tự Trọng) trước khi dời đến địa điểm trong vườn bách
thảo . Trong số các hội viên của Hội nghiên cứu Đông Dương ở Sài Gòn
được nhiều người biết sau này có các ông Aymonier, bác sĩ Mougeot,
Trương Vĩnh Ký, Trương Minh Ký, Paulus Của, A. Landes, bác sĩ Dejean de
la Batie, Lê Văn Thông, kĩ sư Thévenet, Henri Marchal, Georges Maspero,
Nguyễn Văn Của (chủ nhà in Nguyen Van Cua).
Năm 1906 là năm chùa Đa Kao làm lễ khánh thành. Đây là chùa với kiến
trúc đặc thù của người Hoa, ở gần trung tâm thành phố Sài Gòn, thờ Ngọc
Hoàng thượng đế, Quan Âm, Thổ địa, Thành hoàng đế, Quan Phu tử, Thiên
tướng, Thanh long đại tướng… Chùa do một người Hoa kiều tên là Lưu Minh
bỏ tiền ra xây từ năm 1900. Tương truyền là nhờ thần thánh phù hộ, ông
đã thoát khỏi Trung quốc sau khi bị kết án chung thân tội giết em của
ông và đã thề sẽ trả ơn. Ông xây chùa ở vị trí ngay nơi một cây cổ thụ
đã bị xét đánh đổ mà các người trú mưa dưới gốc cây không bị hề hấn gì.
Thật sự thì không đúng vậy vì sau đó ông đã đi Trung quốc nhiều lần
không hề hấn gì và ông xây để phù hộ công việc làm ăn của ông và ông có
lợi ích trong đó. Chùa được xây ở vị trí trước đó là một miếu cổ mà ta
vẫn còn thấy một tường dưới gốc cây cổ thụ .
Đầu thế kỷ 20, trong các công trình xây dựng có nhà thờ Huyện Sĩ ở
góc đường Frère Louis (Nguyễn Trãi ngày nay, Frère Louis Gaubert là
người lập ra trường Taberd) và đường Frères Guillerault (Tôn Thất Tùng).
Nhà thờ do ông Huyện Sĩ, xây xong vào năm 1905. Ông Huyện Sĩ, tên thật
là Lê Phát Đạt (1841-1900), người Sài Gòn sống ở khu Cầu Kho gần đó. Ông
Huyện Sĩ theo đạo Ki tô, học latin, quốc ngữ, Pháp ở trường dòng. Thời
kỳ Pháp ban đầu đến ở miền Nam, những người có chữ nghĩa như ông được
trọng dụng. Ông được cử làm Thông phán ở Tân An. Trong thời gian ở Long
An, ông trở nên giàu có qua các đất đai ruộng lúa ông mua lúc Pháp bán
các đất đai để phát triển canh tác với giá rất rẻ.
Thời đó ở miền Nam có câu “nhất Sĩ, nhì Phương, tam Xường, tứ Định”. Ông
là người giàu nhất trong bốn người giàu ở Sài Gòn và Nam Kỳ. Thứ nhì là
Đỗ Hữu Phương, làm tổng đốc. Thứ ba là Lý Tường Quan, người Minh Hương,
tục danh là Hộ Xường, và thứ tư là ông Hộ trưởng tên là Định, gọi là Hộ
Định. Để nhớ lại vùng mình sinh trưởng trước đây, ông Huyện Sĩ tài trợ
xây tại Sài Gòn gần khu Cầu Kho một nhà thờ, nay mang tên ông. Ông mất
trước khi nhà thờ được xây xong. Ông cũng là ông ngoại của bà Nam Phương
hoàng hậu, vợ của vị vua cuối cùng Việt nam, vua Bảo Đại. Chợ Bến
Thành, còn gọi là Chợ Mới, được hãng thầu Brossard et Mopin xây vào năm
1912 (tháng 3 1914 thì hoàn tất) ở vùng trũng có đầm nước bị lấp đi gọi
là marais Boresse (ao Bồ Rệt), thay thế Chợ Vải trên đường Charner
(Nguyễn Huệ).
Chợ Vải vì thế được gọi tên là Chợ Cũ, hiện nay vẫn còn, nhưng nhỏ
hơn so với trước. Chợ Bến Thành được khai trương tưng bừng trong 3 ngày
28, 29 và 30 tháng 3 năm 1914, với pháo bông, và nhiều người từ lục tỉnh
đổ về tham dự (3).Ngay tại góc đường Catinat (Đồng Khởi) và Quai de
Belgique (bến Bạch Đằng) là khách sạn Majestic, khách sạn sang nhất Đông
nam Á đầu thế kỷ 20. Khách sạn Majestic, xây năm 1925 theo kiểu nhà
nghỉ vùng Riveria (miền nam Pháp) với kiến trúc baroque, do một người
thương gia giàu có người Minh hương gốc Phúc Kiến đầu tư xây dựng : ông
Hứa Bổn Hòa (Jean Baptiste Hui Bon Hoa) hay còn gọi với tên thân mật là
chú Hỏa. Chú Hỏa, cũng như một người Minh hương gốc Triều Châu giàu có
khác cùng thời là Quách Đàm, lập nên sự nghiệp từ lúc hàn vi nghèo khó,
có nhiều tiệm cầm đồ và bất động sản ở nhiều nơi trong Sài Gòn – Chợ Lớn
và khắp Nam Kỳ lục tỉnh. Bệnh viện Sài Gòn, Từ Dũ, khu biệt thự đường
Lý Thái Tổ (nay là nhà khách chính phủ) là do Hứa Bổn Hòa xây. Biệt thự
tư gia gia đình ông ở, trên đường Phó Đức Chính, nay là Viện bảo tàng mỹ
thuật thành phố.
Trên các đường Catinat (Đồng Khởi), Bonard (Lê Lợi), Kinh lấp
(Charner, Nguyễn Huệ), rue d’Espagne (Lê Thánh Tôn), MacMahon (Nam Kỳ
khởi nghĩa) có các cửa tiệm với dịch vụ mới như xuất bản sách báo, bán
sách, vở, thuốc tây, chụp và rửa ảnh, tư vấn luật pháp và văn phòng các
công ty bắt đầu thay thế các cửa hàng của người Hoa. Trên đường rue
d’Espagne có một nhà in tên là Trần Trọng Cảnh (112 rue d’Espagne), nơi
đây cũng là trụ sở của báo L’Ere nouvelle do Cao Hải Đề làm giám đốc,
chủ bút là Vũ Đình Dy. Báo xuất bản năm 1926. Trong phần quảng cáo của
báo Thời đại mới, ta có thể thấy các cơ sở kinh doanh, kinh tế, dịch vụ
của người Việt và Hoa ở Sài Gòn – Chợ Lớn và các tỉnh .
L’Ere nouvelle (Thời đại mới) là báo của Đảng Lao Động An Nam (Parti
travailliste Annamite) do ông Cao Triều Phát sáng lập, Cao Triều Phát
sau này là đại biểu quốc hội Việt Nam dân chủ Cộng hòa, cố vấn ủy ban
kháng chiến Nam Bộ. Số 116 đường MacMahon là văn phòng của luật sư Phan
Văn Trường, khách sạn Nam Việt khách lầu (Hotel d’Annam) ở số 72-80
đường Kinh lấp (Boulevard Charner) do ông Huỳnh Huệ Ký làm chủ, góc
đường Catinat và Bonard là tiệm thuốc tây L. Solirene . Số 118 đường
Catinat là tiệm bán máy ảnh và rửa phim, Photo Nadal (sau này có để lại
các bộ sưu tập hình ảnh xưa vùng Sài Gòn – Chợ Lớn, xem . Dọc đường
Ohier (Tôn Thất Thiệp ngày nay) có rất nhiều tiệm của người Ấn (người
Pháp gọi là Chetty, Việt gọi là Chệt ti cho vay tiền
Văn phòng của công ty Bùi Kỳ Luận & Fils ở góc đường Boulevard de
la Somme (Hàm Nghi) và Pellerin (Pasteur) chuyên sửa xe hơi, sửa máy
in, sửa máy tàu, bắt điện nhà, đóng tàu hơi và tàu khói. Sài Gòn-Auto
của ông Tăng Quang Di chuyên bán phụ tùng xe hơi như Citroen, dầu Mobil
Oil… ở 19-21 đường Amiral Roze (Trương Định). Tòa soạn của tờ báo Nữ
Giới Chung xuất bản năm 1918 cho phụ nữ nằm ở đường Taberd (Nguyễn Du).
Tuần báo nầy còn tên là Fémina Annamite, do bà Nguyễn Thị Ngọc Khuê
(Sương Nguyệt Anh), con gái của cụ Nguyễn Đình Chiểu, làm chủ nhiệm.
Không xa nơi này là trụ sở báo Nông Cổ Mín Đàm ở số 12 đường rue Cap
St Jacques (sau là rue Filippini, ngày nay là đường Nguyễn Trung Trực).
Gần trụ sở của báo Nông Cổ Mín Đàm là tòa soạn tờ Đông Pháp thời báo (Le
Courrier Indochinois) do ông Diệp Văn Kỳ mua lại của ông Nguyễn Kim
Đính năm 1927. Tòa soạn của báo Đông Pháp thời báo nằm ở góc đường
Filippini (Nguyễn Trung Trực) và rue d’Espagne (Lê Thánh Tôn). Đông Pháp
thời báo ra năm 1923 có khuynh hướng thân chính phủ, nhưng từ khi ông
Diệp Văn Kỳ làm chủ, tờ báo trở nên cấp tiến. Trong số những cộng tác
viên của báo là các ông Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu, Đào Trinh Nhất, Phan
Khôi, Trần Huy Liệu. Năm 1929, Diệp Văn Kỳ thay tờ Đông Pháp thời báo
bằng tờ nhật báo Thần chung.
Sau hơn 40 năm từ lúc Pháp chiếm Sài Gòn, lúc này chữ quốc ngữ đã
được phổ biến ở Nam Kỳ lục tỉnh, rộng rãi nhất là ở các thành phố. Hai
tờ báo quốc ngữ có tiếng tăm của người Việt làm chủ bút đầu thế kỷ 20 là
tờ Nông cổ mín đàm (1901) và tờ Lục tỉnh tân văn (1907). Lục tỉnh tân
văn do Nguyễn Chánh Sắc làm chủ bút, một người vừa giỏi Hán học và Tây
học. Tờ Nông cổ mín đàm (chữ Hán nghĩa là “uống trà bàn chuyện làm ruộng
và đi buôn”) chủ yếu nói về nông nghiệp và thương mại, phản ảnh Nam Kỳ
thời đó (cũng như trước kia và ngày nay) phát triển sung túc là nhờ canh
nông (mà gạo là quan trọng nhất) và thương mại. Chủ nhiệm là ông Paul
Canavaggio, một thương gia người Pháp, và trong số các chủ bút của tờ
báo có ông Gilbert Trần Chánh Chiếu, Nguyễn Chánh Sắc những người giỏi
Tây học nhưng cũng rất đậm truyền thống Việt Nam và hiểu Hán học. Nông
cổ mín đàm được coi là tờ báo kinh tế đầu tiên bằng chữ quốc ngữ.
Người Việt bắt đầu tham gia vào các hoạt động thương mại, kỹ nghệ và
nhiều người đã thành công. Phong trào Minh Tân do ông Trần Chánh Chiếu
phát động để cải cách tư tưởng, suy nghĩ, canh tân cách sống, văn hóa
bắt đầu lan ra nhiều tỉnh. Ông có liên hệ và giúp đỡ phong trào Đông Du
của Phan Bội Châu và Duy Tân của Phan Châu Trinh. Về kinh tế, ông kêu
gọi các người Việt từ nhà nông, điền chủ, công chức, mau thức tỉnh, đem
tiền của để hùn hạp buôn bán, đầu tư vào các hoạt động thương mại cạnh
tranh với người Hoa và Ấn. Trong lãnh vực kinh tế, ngoài các độc quyền
của chính phủ các mặt hàng có nguồn lợi thuế lớn, như rượu, thuốc phiện,
muối thì các lãnh vực khác đều tự do cạnh tranh. Nhưng trong số những
phương thức canh tân giúp người Việt thì phương pháp tẩy chay hàng hóa,
dịch vụ người Hoa của phong trào Minh Tân mà có lúc xảy ra nhiều lần đã
không có hiệu quả và có hướng tiêu cực không đúng.
Mục Thương cổ luận trong báo Nông cổ Mín đàm ở trang nhất tuyên chiến
với tư tưởng tứ dân (sĩ, nông, công, thương) đã ăn sâu vào suy nghĩ của
người Việt với lời khẳng định : Sự đại thương là đệ nhứt cách giúp cho
dân phú quốc cường, đồng thời hướng dẫn các thương nhân Việt Nam cách
giao thương buôn bán và khuyến khích, kêu gọi họ đoàn kết để cạnh tranh
với các thương nhân Hoa kiều và Ấn kiều.
Trần Chánh Chiếu lập tổ hợp “Minh Tân công nghệ” với Minh Tân khách
sạn, hãng xà bông Can Can (con vịt), tiệm “Mộng Tiền Trà” ở Sài Gòn và
lập “Duy Tân lữ quán” ở Mỹ Tho . Các cơ sở này được dùng để ủng hộ các
nhà yêu nước hoạt động, giúp đỡ phong trào Minh Tân, Duy Tân và Đông Du.
Tài sản, tài chánh của cá nhân ông, ông đều không ngại đổ vào trong
công cuộc canh tân đất nước. Cùng chí hướng với ông trong phong trào
Minh Tân là Nguyễn An Khương có khách sạn “Chiêu Nam Lầu” ở trung tâm
Sài Gòn, đường Nguyễn Huệ gần chợ Cũ. Vì ra mặt ủng hộ và khuyến khích
phong trào Đông Du và Duy Tân, ông Gilbert Trần Chánh Chiếu, mặc dầu có
quốc tịch Pháp, đã bị theo dõi và cô lập. Sau vụ khởi loạn của Phan Xích
Long, năm 1917 ông bị tình nghi có dính líu và bị Pháp quản thúc ở quê
nhà Rạch Giá. Lúc này ông đã già yếu, nhân dịp cuộc tranh cử dân biểu
đại diện Nam Kỳ vào quốc hội giữa luật sư tiến bộ Monin và quyền thống
đốc Nam Kỳ Outrey, ông đã gắng gượng đi bầu cho Monin và trước khi mất
đã nói “ C’est ma dernière cartouche ” (Đây là viên đạn cuối cùng của
tôi) . Ngày nay trong Chợ Lớn, có chợ Trần Chánh Chiếu mang tên ông.
Đầu thế kỷ 20 cũng xuất hiện nhà in và nhà sách của ông Albert
Portail. Nhân viên một hãng in, ông được gởi qua Sài Gòn làm việc vào
năm 1905. Không lâu sau đó, ông mua lại một hãng in khác ở Sài Gòn. Hãng
in này có một nhà sách trên đường Catinat. Hãng in và các nhà sách của
ông ở nhiều nơi đã phát hành và phân phối bán sách trên toàn cõi Đông
Dương trong nửa đầu thế kỷ 20. Nhà sách của ông ở Sài Gòn rất lớn, một
phần của nhà sách Albert Portail hiện nay là nhà sách Xuân Thu trên
đường Đồng Khởi.
Qua báo chí và sách vở bằng chữ quốc ngữ, tư tưởng và văn học được
phổ biến đến quần chúng. Ngoài những thông tin về tiến bộ trong các lãnh
vực nông nghiệp, báo Nông cổ mín đàm cũng đăng các truyện sáng tác và
dịch, ngay cả các tác phẩm cổ điển của Trung quốc như Tam quốc chí bằng
quốc ngữ, được đăng nhiều kỳ hấp dẫn bạn đọc khắp Nam Kỳ lục tỉnh. Bây
giờ không phải chỉ giới học thức sĩ phu mới được có tiếp cận đến thông
tin, văn học mà tất cả tầng lớp trong xã hội kể cả giới bình dân. Báo
đăng những vở tuồng hát bội cải cách theo tân thời (tiền thân cải lương)
như các vở Vì nghĩa quên nhà, Báo nghĩa nổi tiếng của Hồ Biểu Chánh vào
năm 1917 . Vở kịch tuồng Vì nghĩa quên nhà (soạn cùng với Lê Quang
Liêm) sau đó được diễn ở rạp Eden, Sài Gòn, gây ra cuộc tranh luận về
hát bội và kịch hát cải cách báo hiệu sự ra đời của cải lương mà ta biết
ngày nay. Năm 1920, đoàn Tân Thịnh đã dùng chữ “cải lương” đầu tiên để
diễn các vở kịch cải cách này. Theo ông Hứa Hoành thì : « Truyện Tàu
được dịch ra lần đầu tiên ở nước ta từ năm 1904, đó là bộ Tam Quốc Chí,
được đăng trên tờ báo Nông Cổ Mín Đàm. Từ đó, nhiều người có kiến thức
Hán văn và chữ Quốc ngữ liên tục dịch cho đến năm 1932. Trong số hơn 30
dịch giả thì Trần Phong Sắc là một người dịch nhiều bộ nhứt (gần 20 bộ),
gây ảnh hưởng lớn lao cho cả dân chúng Nam Kỳ vào đầu thế kỷ nầy. Ảnh
hưởng truyện Tàu đã góp phần hình thành một nhơn sinh quan đặc biệt của
người dân miền Nam mà nét luân lý nổi bật qua các câu châm ngôn Trọng
nghĩa khinh tài, anh em bè bạn ăn ở với nhau có thủy chung, trước sau
không thay đổi. Trong cuộc sống, hễ gặp bất bình thì ra tay can thiệp,
cứu giúp : Kiến nghĩa bất vi vô dõng giả (thấy điều nghĩa không ra tay
hành động không phải kẻ anh hùng), hoặc Hoạn nạn tương cứu, sanh tử bất
ly… (có nghĩa là sự giúp đỡ lẫn nhau khi lâm hoạn nạn, sống chết có nhau
khi đã thề làm bạn…) ».
Các nhà báo cũng lập ra Hội Ái hữu các nhà báo Nam Kỳ, AJAC (Amicale
des Journalistes Annamites de Cochinchine). Hội trưởng là Nguyễn Văn
Sâm, chủ nhiệm báo Ðuốc nhà Nam. Trụ sở hội quán AJAC tọa lạc ở góc
đường La Grandière (Lý Tự Trọng ngày nay), và Aviateur Garros (Thủ Khoa
Huân). Nguyễn Văn Sâm có lúc đã ra tranh cử và đắc cử vào Hội đồng quản
hạt, nhưng sau vì AJAC chống Pháp nên bị bắt vào tù trong một thời gian.
Hội khuyến học Nam Kỳ (Société d’Enseignement Mutuel de Cochinchine)
tọa lạc ở số 34 đường Aviateur Roland Garros (nay là đường Thủ Khoa
Huân). Hội do ông Bùi Quang Chiêu thành lập. Ngoài những buổi nói chuyện
về các đề tài kỷ thuật, nông nghiệp, văn hóa… bằng hai thứ tiếng Pháp
hay Việt do các diễn giả người Pháp hay người Việt trình bày. Nơi đây
ngày 25 tháng 1 năm 1923, người thanh niên yêu nước Nguyễn An Ninh đã có
bài nói chuyện nổi tiếng bằng tiếng Pháp với đề tài “Chung đúc một nền
học thức cho dân An Nam”.
Nguyễn An Ninh, con cụ Nguyễn An Khương, người trong phong trào Minh
Tân canh tân đất nước cùng thời với Gilbert Trần Chánh Chiếu. Nguyễn An
Ninh đỗ cử nhân luật ở Pháp, thấm nhuần tư tưởng cộng hòa tự do của cách
mạng Pháp. Ông là người đầu tiên dịch quyển Contrat social (Khế ước xã
hội) của Jean-Jacques Rousseau. Ông Trần Văn Giàu, người đã từng gặp
Nguyễn An Ninh, đã tả ông như sau : “ Người anh Ninh, tóc chấm vai, mắt
sáng như sao, tiếng trong như chuông ” . Còn Vương Hồng Sển thì viết : “
Theo tôi nhớ, ông Ninh người chắc da, chắc thịt, khá thấp nhưng không
đáng gọi lùn, ông có bề ngang, mặt đỏ hồng vì có dư sức khỏe. tóc đen
nháy và thật nhiều, ông lăng xê mốt để tóc dài xù xụ khỏi ót và thanh
niên đời đó đứa nào có ít nhiều tâm sự như tôi đều bắt chước gọi kiểu
phi lô xốp à la mode de Nguyễn An Ninh, cái kiểu hippy như bây giờ đâu
phải là mới mẻ. Cặp mắt của ông sáng có sao, đôi lông mày thật rậm. Khi
ông nhíu lại, trông người oai phong đầy nghị lực. Thế mà ông hiền như
cục bột, miệng luôn luôn tươi cười tha thứ, và ăn nói rất có duyên…”
Các bài nói chuyện sau đó của ông về đề tài thanh niên và đất nước
cũng đã thu hút rất nhiều người dân đến nghe. Cũng vì một trong những
bài nói chuyện ngày 15 tháng 10 1923 này bằng tiếng Pháp với đề tài Ước
vọng của thanh niên An Nam của Nguyễn An Ninh, mà chính quyền Pháp đã để
ý đến ông và viên toàn quyền Cognacq đã gọi ông lên gặp và cảnh cáo.
Trong buổi gặp mặt và tranh luận giữa hai người trong văn phòng toàn
quyền, ông Cognacq đã cắt ngang ông Ninh với lời nói: « II ne faut pas
d’intellectuels en ce pays » (“Ở xứ này không cần có trí thức”) và cho
biết là Hội khuyến học phải loại ông Ninh ra, nếu không Hội sẽ bị giải
tán. Số tiền 3000 đồng (piastres) trợ cấp của chính phủ hàng năm cho Hội
bị rút lại và những người tổ chức trong Hội đã mời ông Ninh nói chuyện
đều bị khiển trách.
Không nao núng, không lâu sau, ngày 10/12/1923 Nguyễn An Ninh xuất
bản tờ báo La Cloche fêlée (Chuông rè) do Eugène Dejean de la Batie đứng
tên làm chủ nhiệm. Chuông rè ra sau tờ Le Courrier Indochinois (Đông
Pháp thời báo) chỉ ra trước đó cùng năm vào ngày 2/5/1923 nổi tiếng mà
sau này Diệp Văn Kỳ đã mua lại và cuối cùng đổi tên tờ Đông Pháp thời
báo thành tờ Thần Chung vào năm 1929. Nhưng tờ La cloche fêlée chịu rất
nhiều khó khăn, nhất là ít ai dám chịu in báo của ông. Nguyễn An Ninh
hầu như viết bài hoàn toàn cho tờ báo, một mình mang đi in và tự minh đi
bán báo ở các đường phố trên Sài Gòn: đường Catinat, Bonard, rue
d’Espagne, Pellerin…
Vương Hồng Sển nói về Nguyễn An Ninh bán báo ở Sài Gòn ở trước nhà
hàng tàu Yeng Yeng đầu đường Pellerin (Pasteur ngày nay) ở Chợ Cũ, nơi
có bán cơm Tây rẻ mà nhiều người đến ăn (đặc biệt có món bò
Chateaubriand nổi tiếng) như sau :“ Nhưng mỗi tuần vào khoảng tháng hai
tháng ba tây năm 1926 cứ mỗi thứ hai và thứ năm lối bảy tám giờ tối
không sót ngày nào, ai muốn gặp Ninh cứ lại trước nhà hàng Yeng Yeng thì
gặp, không trật bữa nào… Trước khi giáp mặt chị em, tôi thường mua một
tờ Chuông Rè để lấy le. Nhưng ông Ninh sau khi bán cho tôi đều đều, lại
lầm tưởng, cho tôi đúng là nhà ái quốc có gan, không nữa cũng một tay cừ
nào đó có sạn trong đầu. Một đôi khi sau khi nhận của tôi một cắc bạc
tiền mua báo, ông chồng báo qua tay trái và chìa tay mặt bắt tay tôi
niềm nở như hai bạn tương tri cách mặt lâu ngày. Có mấy lần tôi thẳng
thắng kéo tay mời ông vô dùng cơm Yeng Yeng, nhưng ông lắc đầu lia lịa,
xổ một dọc tiếng Tây cám ơn không ngớt, và tỏ vẻ cảm động thật tình. Nói
cho đúng lúc ấy ai ai đều ngán ông Ninh và không dám giao thiệp công
khai, vì sợ liên lụy không nhỏ. Riêng tôi, tôi lại nghĩ lại. Lúc bấy giờ
chưa ai biết là nhà ái quốc dám hy sinh tánh mạng như ngày nay đã rõ,
lúc ấy ông là người ai cũng e dè không dám lại gần, trừ những người cùng
một chủ nghĩa với ông, Việt Tha, Le Jean de la Bâtie, Paul Marchet, vân
vân. Còn tôi, tôi vẫn phục ông thật tình …”Không lâu sau, Nguyễn An
Ninh bị bắt sau buổi mít tinh ở vườn Xóm Lách, đường Lanzarotte (Đoàn
Công Bửu ngày nay), trước lúc có cuộc “đón tiếp” ông Bùi Quang Chiêu từ
Pháp về vào ngày 24/3/1926 tại nhà Rồng. Buổi nói chuyện của ông Nguyễn
An Ninh ngày chủ nhật 21/3/1926 tại vườn xoài nhà bà đốc phủ Nguyễn Tấn
Tài (cô ruột Nguyễn An Ninh (11)) đường Lanzarotte (nay là đường Đoàn
Công Bửu), trong đó có các nhân vật khác tham dự như các ông Phan Văn
Trường, Nguyễn Phan Long, Trương Văn Bền, Nguyễn Tấn Văn, Tạ Thu Thâu,
đã thu hút hàng ngàn người. Ông Vương Hồng Sển đã tả lại không khí ngày
đó như sau :
“ Tôi đọc tờ truyền đơn rồi, hôm sau tôi vội xách lên dinh thượng thư
(nay là trụ sở bộ kinh tế), tìm anh em bạn học cũ, tụi bãi học năm xưa,
để rủ đi nghe diễn thuyết. Các anh L.M. Thọ (sau làm đốc phủ chết vì
bịnh). T.H. Phục, Nguyễn Chỉ, cả hai lên tới đốc phủ rồi bị ám sát những
năm 1945-1946, nhưng anh nào cũng kiếm cớ thối thác, người mắc đi khỏi,
người mắc việc nhà, miệng thì hưởng ứng nhưng lòng vẫn mê say đường
công danh, muốn trung thành để được điểm son và rất sợ có tên trong sổ
bìa đen mật thám mà chậm đường gia quan tấn tước. Không rủ họ được, tôi
về rủ anh em cùng chỗ trọ. Tôi chừa ra chú nhỏ Nguyễn Văn Lư, tôi gọi Lư
tiên sinh, vì chú còn đi học mình rủ đi nghe việc quốc sự không nên.
Một bạn nay đã từ trần là Công, hãng Denis Frères, thì chúa nhựt nào
cũng phải đi xem lễ, nên tôi không ép. Lão Dân làm cho báo Trung lập và
báo Impartial, thì khỏi mời nó cũng dự vì phận sự là đi lấy tin tức. Còn
lại anh Hai Cự thì thứ bảy nào anh cũng trông mãn giờ, trưa về Cây Cui
thăm nhà. Anh Cự hứa chắc chắn sẽ trở ra sáng chúa nhựt 21-3-1926 thật
sớm để kịp đi với tôi và căn dặn đôi ba lần tôi đừng đì một mình thất
vui. Có biết đâu vì giữ lời hứa mà xôi chè đầu hỏng. Nói có vong linh
bác Năm Hy, chủ nhà trọ, khi nghe chúng tôi bàn soạn, thì thầm bác hỏi :
“ Vườn bà đốc phủ Tài ở chỗ nào, tụi bây chỉ cho tao đi với ”. Tôi
thưa. – Dạ, bác cứ gọi xe kéo trả nó năm cắc bạc, biểu nó chạy lên đường
Lanzarotte, chỗ nào có người ta tụ tập đông là chỗ đó đó.
Và như đã nói, xôi chè hỏng bét tôi không dự được buổi diễn thuyết
ngày 21-3-1926 nầy. Sáng chúa nhựt ấy, tôi thức thật sớm, xuống ăn điểm
tâm nhà hàng Vĩnh Lọt ở gần bên, rồi về nhà ngồi chờ anh Hai Cự. Vả
chăng vườn bà đốc phủ Tài ở tới Lanzarotte (đường Đoàn Công Bửu), xóm
Lách, còn nhà chúng tôi ở là Chợ Mới Sài Gòn, cái ga xe lửa điển thì ở
mé nhà thương đô thành, chỗ bót Lê Văn Ken ngày nay. Đồng hồ đã gõ tám
tiếng, rồi tám tiếng rưỡi, tôi sốt ruột ra vô ngóng chờ mà trông hoài
không thấy bóng anh Hai Cự. Gần chín giờ sáng, anh Cự lù lù từ ga xe
điện bước qua, tôi không đợi anh vô nhà, lật đật kéo anh chạy kiếm hai
xe kéo nhờ kéo lẹ lẹ lên đường Lanzarotte. Xe chạy đến đầu đường
d’Arfeuilles (Nguyễn Đình Chiểu) thì bị chận lại. Thiên hạ rần rần tuôn
về như nước chảy vì cuộc diễn thuyết đã bi giải tán.
Ngoài đường người ta đông nghẹt, lớp thì lính phú lít, lớp lính ma tà
xúm nhau hối thúc bộ hành đi cho mau, không được tùng tam tụ ngũ, giùm
năm giùm ba, ác nhứt là biện Tây, biện Chà, đứa cầm roi gân bò, đứa thổi
tu-hít, roi nghe vùn vụt, tiếng síp-lê hoót hoót nghe muốn són đái. Tôi
lấy mắt lườm anh Cự mà không nói lời nào, kéo tay anh cố chen đám đông
bước tới. Bỗng gặp anh Nguyễn Văn Lạc Khám Lớn, thấy tôi, anh lôi ngoắc
lại mà rằng : “ Đừng vô nữa thất công. Đã bị cò bót giải tán tự nãy giờ.
Người ta đông quá xá đông, diễn giả nói nhỏ quá không nghe gì được (lúc
ấy chưa có máy phóng thanh, cũng chưa biết dùng loa để nói). Đ.M, Tây
phách quá, mấy thằng Chà đáng ghét cứ rượt theo dân nào ăn mặc lùi xùi
mà đánh chửi hoài ”.
Ba ngày sau, ngày 24/3/1926 cũng đáng nhớ trong lịch sử Sài Gòn: cuộc
đón tiếp ông Bùi Quang Chiêu và ngày cụ Phan Châu Trinh mất. Bùi Quang
Chiêu, người sáng lập Đảng Lập Hiến (Parti Constitutionnaliste), mong có
sự cải tổ dân chủ và nới rộng quyền lợi chính trị cho người Việt, theo
chủ trương “Pháp-Việt đề huề” lúc đầu được nhiều người tin tưởng đặt kỳ
vọng. Tại nhà Rồng đã có những xô xát đánh nhau giữa những người Pháp
mang gậy gộc đánh nhóm người Việt đi đón ông. Ngày này cũng là ngày cụ
Tây hồ Phan Châu Trinh mất ở Sài Gòn. Báo chí Sài Gòn đăng tin lớn, tập
trung về nhà chí sĩ Phan Châu Trinh. Tờ Đông Pháp thời báo đăng nhiều
trang về cuộc đời và sự nghiệp của ông. Đám tang Phan Châu Trinh là cuộc
diễn hành vĩ đại nhất mà Sài Gòn chưa từng chứng kiến cho đến giờ:
khoảng từ 60 000 đến 100 000 người (lúc đó Sài Gòn có khoảng 300 000
dân) đã tiễn đưa cụ đến nghĩa trang của hội Gò Công tương tế, gần Tân
Sơn Nhất . Ngày nay, bên cạnh mộ, là nhà lưu niệm Phan Châu Trinh.
Nhưng người Sài Gòn mến và ái mộ Nguyễn An Ninh hơn hết, một người vì
nước không màng danh lợi cho bản thân mình. Bài thơ cuối cùng của ông,
tìm được trong túi áo ông khi ông chết trong tù ở Côn đảo năm 1943, gần
đúng 43 tuổi đời
Họat động báo chí ở Sài Gòn nở rộ trong các thập niên 1920 và 1930.
Ngoài các tờ Le Courrier Indochinois (Đông Pháp thời báo), Ere nouvelle
(Nhật Tân báo) còn có các tờ La Tribune Indigène (Diễn đàn bản xứ) của
Nguyễn Phú Khai, La Tribune Indochinoise (Diễn Đàn Đông Dương) của Bùi
Quang Chiêu, L’Echo Annamite (Tiếng vọng An Nam) của Nguyễn Phan Long,
Đuốc Nhà Nam (Flambeau d’Annam) của Nguyễn Văn Sâm. Các chủ tờ tờ báo
này nằm trong Đảng Lập Hiến Đông Dương (Parti Constitutionnaliste), có
mục đích kêu gọi người Pháp để Việt Nam có một bản hiến pháp làm nền
tảng tự trị như nước Anh đã làm cho các xứ Australia, Canada, những cựu
thuộc địa của nước này. Tờ L’Annam của luật sư Phan Văn Trường, tờ La
Lutte của Tạ Thu Thâu là những tờ báo tiến bộ.
Các tờ báo của Pháp, với đường lối bảo thủ có các tờ L’Impartial,
L’Opinion, Sài Gòn républicain và Le Courrier de Sài Gòn. Tuy nhiên có
vài tờ báo của những người Pháp tiến bộ, bảo vệ quyền lợi người Việt và
dân bị trị như tờ Indochine của luật sư Monin, đặt ở trụ sở số 39 đường
MacMahon và tờ La voix libre của Edgard Ganofsky, một người Pháp chống
thực dân Pháp. Ganofsky cũng đứng ra làm chủ nhiệm cho tờ La Lutte của
Tạ Thu Thâu. Trần Văn Giàu nói về E. Ganofsky (một Nguyễn An Ninh của
Pháp) như sau
“ Ganofsky là một “người Pháp chống thực dân Pháp”, phát hành tờ La
voix libre, hễ người Việt nam yêu nước yêu cầu ông làm chủ nhiệm một tờ
báo tiếng Pháp để chống thực dân thì ông nhận liền. Ông là một người kỳ
dị, sống rất nghèo, ngủ trên “nệm” lót bằng những chồng báo cũ. Ông phát
hành báo của ông bằng xe đạp hay bằng xe hai bánh kéo tay, ông ghét cay
ghét đắng tất cả những bất công của chế độ thuộc địa và tất cả mọi thứ
bất công khác trên đời. ”
Bộ mặt thành phố đã có một số thay đổi so với các năm của thế kỷ trước.
Theo một sách hướng dẫn Saïgon-Souvenir, petit guide Sài Gònnais à
l’usage des passagers des débutants dans la colonie xuất bản năm 1906 mô
tả cho khách viếng thăm Sài Gòn của tác giả L.I. , ta có thể thấy cảnh
quang của Sài Gòn đầu thế kỷ 20 như sau :
Bắt đầu từ bến Francis Garnier (Bạch Đằng ngày nay) ở đầu đường
Catinat (Đồng Khởi) dọc theo bờ sông đến quảng trường rộng hội tụ các
con đường chính, trong đó đường Paul Blanchy (Hai Bà Trưng) là đường
quan trọng chính đi về phía bắc Sài Gòn. Tại quảng trường Rigault de
Genouilly (nay quảng trường Mê Linh), có tượng của đô đốc cùng tên người
đánh chiếm Nam Kỳ năm 1859. Tượng được dựng từ năm 1878.
Cạnh tượng Rigault de Genouilly là một kim tự tháp xây kỷ niệm
Doudart de Lagrée, thuyền trưởng tàu đi thám hiểm sông Mekong
(Expédition du Mékong). Chung quanh là các khẩu súng đại bác tịch thu
trong các trận chiến nối với nhau bằng các dây xích quanh tượng. Ngày
nay tại quảng trường này là tượng anh hùng chống ngoại xâm Việt Nam,
Trần Hưng Đạo.
Tiếp tục dọc theo bến sông đi qua các cửa hàng hải quân (magasins de
la Marine), cục quản lượng (les Subsistances), nơi ở của chỉ huy trưởng
hải quân (l’Hôtel du commandant de la Marine), các xưởng Pháo binh và
sau cùng là xưởng tàu (nay là xưởng Ba son), nơi sửa chữa tàu và có rất
nhiều công nhân người Việt và Hoa. Tiếp tục dọc theo đại lộ Luro (nay là
đường Tôn Đức Thắng – Đinh Tiên Hoàng) là các trại lính bộ binh
(casernes de l’Infanterie Coloniale), sau đó sẽ thấy các nhà xây rất đẹp
mắt trước khi ta đi băng qua một khoảng trống lớn có bãi cỏ trước các
trại lính. Tại đây cũng có rất nhiều các cơ sở đạo công giáo. Những trại
lính gồm các dãy nhà (pavillons) lớn, sáng sủa dễ chịu, bao bọc bởi các
hiên ở mỗi tầng; các phòng đều rộng rãi, sạch sẽ, trong sân trồng nhiều
cây lớn, nói chung rất là sống động, vui. Khỏi nói nhiều biện pháp
tuyệt đối vệ sinh được thực hiện và các lính đều trong tình trạng tốt,
sống dễ chịu và rộng rãi. Tất cả các khách du lịch đều nhất trí cho là
các trại lính thuộc địa ở Sài Gòn là những trại lính khang trang và đẹp
nhất trên thế giới.
Để tăng thêm phúc lợi cho các người lính, bên cạnh các trại lính là
Câu lạc bộ lính và thủy binh (Cercle des Soldats et Marins). Câu lạc bộ
là một nhà nhỏ, bên trong là thính đường, có chỗ để viết thư, đọc sách.
Thư viện có khoảng 1500 đầu sách, phòng giải lao bán nước uống được bao
cấp với giá hạ.
Đi tiếp là vườn bách thảo (thảo cầm viên). Từ thảo cầm viên trở lại
phía trại lính, theo đại lộ Norodom (nay là Lê Duẩn) sẽ thấy một nhà thờ
Tin lành, Hội đồng chiến tranh, cơ dinh của tướng bộ binh (Hôtel du
General de Division), câu lạc bộ quân sự (Cercle militaire). Tiếp tục đi
thẳng, phía sau nhà thờ là tượng Gambetta dựng vào ngày 5/5/1889 với
ghi chú “Défenseur de la politique coloniale”… Xa hơn nữa cuối đường là
dinh toàn quyền trong một vườn lớn, dinh này xây với chi phí 12 triệu
francs.
Trở lại nhà thờ Đức Bà, trước nhà thờ là tượng giám mục d’Adran
(Pigneau de Béhaine, évêque d’ Adran tức Bá Đa Lộc, cha Cả)… Nhà thờ
được xây vào năm 1877 với chi phí 2 500 000 francs. Cạnh nhà thờ là bưu
điện thành phố.
Trước nhà thờ là đường Catinat chạy đến bờ sông. Catinat là tên một
chiến hạm đầu tiên của Pháp bắn vào Đà Nẳng năm 1852. Từ đường Catinat
xuống bến sông ta sẽ gặp tòa nhà ngân khố (Trésor, ở bên phải, góc đường
Catinat và Nguyễn Du ngày nay), nhà ở của tư lệnh lữ đoàn 4 thuộc địa
(Hôtel du commandant de la 4e Brigade coloniale et du point d’Appui du
Cap), các công sở, cửa tiệm, quán café, khách sạn… Giữa đường Catinat từ
nhà thờ Đức Bà và bờ sông Sài Gòn là nhà hát thành phố … đằng sau nhà
hát là nhà máy phát điện. Ở góc đường Catinat và Bonard (Lê Lợi) là nhà
hàng khách sạn Continental. Nơi đây là nơi lui tới và gặp mặt của giới
thượng lưu Pháp Việt, như ông Paul Blanchy, nhà buôn bán trồng tiêu và
sau này là thị trưởng Sài Gòn. Nơi đây trong lúc ngồi với bạn hữu, ông
Diệp Văn Kỳ cũng đã gặp ông Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu đi lang thang trên
đường Catinat vào nam kiếm sống sau khi làm báo thất bại ngoài bắc. Diệp
Văn Kỳ, chủ nhiệm tờ Đông Pháp thời báo và là một người nổi tiếng hào
phóng, đã cho tiền Tản Đà để trang trải nợ nần, giúp đỡ định cư trong
ngôi nhà rộng yên tĩnh ở Xóm Gà (Gia Định) và trả lương hậu hỉnh để Tản
Đà viết cho tờ Đông Pháp thời báo
Thống kê dân số Sài Gòn, đầu thế kỷ 20, theo sách của L.I. khoảng chừng
Pháp 6 000
Người Âu khác 5 000
Vietnam 30 000
Cam Bốt 150
Hoa 13 000
Ấn Độ 1 000
Nhật 100
Mã lai 500
Tổng cộng 55 750
(thống kế này chắc chỉ bên trong trung tâm thành phố vì dân số toàn vùng Sài Gòn năm 1869 đã là 104 522)
Người Ấn có nhiều loại : Ấn đạo Sikh hay Hồi từ Pondichéry thường có
vi trí cao trong thương trường, trong cơ quan, cảnh sát .., người Ấn
Hindou (gọi là malabares) thường là tiểu thương, đổi tiền và một nhóm
gọi chung là Chettys (Chệt) có các tiệm cầm đồ. Họ mặc y phục trắng, đầu
cạo trọc, trên trán và hai má các chấm hay gạch bằng than. Người Mã Lai
thường là gác dan, lái xe. Ở bờ biển Vũng Tàu họ sống bằng nghề chài
lưới và có cơ sở thương mại đáng kể.
Buổi chiều sau giờ làm việc, nhiều người thường đi dạo hay đi xe, xe
ngựa xuống Chợ Lớn (giữa Sài Gòn và Chợ Lớn còn vắng vẻ và nhiều đầm
lầy), hay về hướng Gò Vấp viếng khu mộ Cha Cả (Cha Cả, Bá Đa Lộc, chôn
năm 1799 với sự hiện diện của vua Gia Long), chung quanh lăng là các
đồng ruộng lúa, loáng thoáng vài căn nhà nhỏ giữa đồng.
Phía quá Lăng cha Cả về phía tây (trường đua) là khu nhiều mồ mả của
người Việt, đầm lầy và có kinh vòng quanh (Canal de ceinture) nối với
Phú Lâm, Chợ Lớn (rạch Lò gốm, rạch Chợ Lớn).
Giá tiền đi xe từ Sài Gòn đến Chợ Lớn: 0.70 đồng hạng nhất, 0.50 đồng
hạng nhì (đi và về là 1.30 hạng nhất và 0.90 hạng nhì), đi xe kéo thì 1
cuốc 0.10 đồng, một tiếng là 0.25 đồng. Xe tram bằng hơi nước Sài
Gòn-Chợ Lớn : 0.1 hạng nhất, 0.06 hạng nhì và 0.03 hạng ba.
Xe lửa chạy bằng hơi nước dùng than củi lúc này đã phổ biến rộng rãi,
sau khi thống đốc Nam Kỳ khai trương đường xe lửa ở Sài Gòn từ năm
1882. Sau này có hai đường xe lửa chạy ở Sài Gòn-Chợ Lớn-Gia Định. Đường
thứ nhất, Sài Gòn-Gia Định, bắt đầu từ chợ Bến thành chạy theo
Boulevard de la Somme (Hàm Nghi) đến mé sông, lên đường Luro (Tôn Đức
Thắng), rue de Bangkok (Mạc Đĩnh Chi), Nguyễn Đình Chiểu, Đinh Tiên
Hoàng, Đất Hộ (Đa Kao) rồi lên Gia Định đến trạm cuối cùng là Lái Thiêu
(3). Đường Sài Gòn-Chợ Lớn có hai ngả : đường mé sông chạy từ Bến Thành
dọc theo Arroyo chinois (kênh Tàu Hủ) vào Chợ Lớn, đến trạm cuối là trạm
Bình Tây và đường xe lửa giữa chạy từ chợ Cũ ra chợ Bến Thành đi dọc
theo đường Sài Gòn-Mỹ Tho bắt đầu từ trạm Lê Lai đi qua các đường Rue de
marins (Đồng Khánh, Trần Hưng Đạo), Tổng Đốc Phương (Châu Văn Liêm) rồi
đến ga Rodier (chợ Cũ-Chợ Lớn). Sau này đường xe lửa giữa chạy bằng hơi
nước được thay bằng đường xe lửa điện.
Năm 1882, Thống đốc Nam Kỳ Charles Le Myre de Vilers khai trương
đường xe lửa hơi nước. Theo Vương Hồng Sển (3) thì đầu xe lửa hơi nước
này vẫn chạy đuờng Sài Gòn – Mỹ Tho chở khách cho đến khi giải bản về
chở củi (“Nay Le Myre de Vilers đã chết ba mươi đời vương, duy còn lại
một đầu xe lửa trước chạy đường Sài Gòn – Mỹ Tho, mà mới đây đã giải bản
cho về chở củi ! Mỗi lần chạy, đầu xe lửa Le Myre de Vilers vừa ho vừa
khạc ra khói vừa thét ra lửa, mà có khi không đủ trớn lên dốc cầu Tân An
và cầu Bến Lức, trèo lên tuột xuống, lên dốc không nổi… trối kệ, xe cặp
bến cũng còi cũng “xả hơi” ồn ào oai vệ khiếp ? ”.
Xe lửa Sài Gòn-Chợ Lớn lúc đầu là chạy bằng hơi nước (dùng than củi),
sau này chuyển ra xe lửa điện. Trong xe lửa là các hàng ghế bằng cây
theo kiểu của Métro xưa bên Paris. Xe lửa bắt đầu từ đường Nguyễn Huệ
chạy lên đường Lê Lợi, Lê Lai rồi chạy thẳng theo đường Trần Hưng Đạo
vào Chợ Lớn. Hai bên đường Trần Hưng Đạo (lúc đó gọi là đại lộ Galliéni)
lúc trước toàn là đất hoang và sình lầy. Năm 1928 thì đường này mới
được tráng nhựa và năm sau điện giăng giữa chia con đường làm hai chiều,
đường rầy xe điện đặt theo trục giữa đại lộ. Không xa đường xe điện,
trên đường Yersin, gần đình Cầu Quan (nay gọi là đình Thái Hưng) là nhà
hát Thành Xương (rạp hát Cầu Quan), nơi mà nhiều đoàn hát bộ, cải lương
thành phố trình diễn trong thập niên 1930 và sau này. Đây là trung tâm,
nơi dung dưỡng của nhiều nghệ sĩ hát bộ và cải lương của thành phố.
Cũng tại rạp Thành Xương này, tháng 4-1933, đã có buổi họp nói chuyện
của liên danh “Sổ lao động”, ra tranh cử vào Hội đồng thành phố, với sự
có mặt của Trần Văn Thạch, Nguyễn An Ninh, Tạ Thu Thâu, Trần Văn An.
Rạp Thành Xương hôm đó chật kín người dân đến nghe tràn cả ra ngoài.
Nhóm “Sổ lao động”, gồm Nguyễn Văn Tạo, Trần Văn Thạch, Tạ Thu Thâu, Lê
Văn Thu, Nguyễn An Ninh, Huỳnh Văn Phương, Phan Văn Chánh gồm những
người cộng sản và đệ tứ, ra tờ báo La Lutte. Lúc này, thời khủng hoảng
kinh tế 1929, giá gạo và cao su xuống thảm hại, nhiều người phá sản, là
lúc nhiều người thất nghiệp, đời sống cực kỳ khó khăn, và có nhiều bãi
công ở Sài Gòn. Kết quả bầu cử ngày 30/4 và 7/5 1933, hai ông Nguyễn Văn
Tạo và Trần Văn Thạch của “Sổ lao động” được đắc cử.
Tháng 5-1935, trong cuộc bầu cử vào Hội đồng thành phố, các ông Trần
Văn Thạch, Nguyễn Văn Tạo, Tạ Thu Thâu và Dương Bạch Mai của Sổ lao động
đều trúng cử làm chính quyền thực dân Pháp rất giận dữ và cơ quan an
ninh (Sureté) càng theo dõi, tìm cơ hội bắt, đàn áp, mang ra tòa nhóm La
Lutte. Sổ lập hiến của các ông Nguyễn Phan Long, Nguyễn Văn Sâm, Bùi
Quang Chiêu… có ra tranh cử nhưng không thành công. Ngày giáng sinh
25/12/1935, các người lái xe ngựa (thổ mộ) ở Sài Gòn – Chợ Lớn và nhiều
nơi như Bà Điểm, Phú Nhuận, Khánh Hội đến biểu tình ở chợ Bến Thành
chống sự làm khó khăn của chính quyền để công ty xe điện Pháp (Compagnie
Française des Tramways) độc quyền rước khách. Năm sau, 1936, Mặt trận
bình dân (Front populaire) thắng cử ở Pháp với chính phủ của Léon Blum,
làm phấn khởi, châm ngòi cho các cuộc bãi công ở xưởng Ba son, nhà đèn
Chợ Quán, Hãng rượu Bình Tây, Hãng dầu Standard Oil ở Nhà Bè, Hãng dệt,
nhà máy xay lúa ở Chợ Lớn, công nhân hỏa xa, bến tàu, đồn điền cao su…
khắp Nam Kỳ. Lúc này luật áp dụng như bên Pháp, công nhân biểu tình
không cần xin phép, chỉ báo trước 24 tiếng đồng hồ. Năm 1938, sau khi
chính phủ Mặt trận bình dân đổ, đàn áp của thực dân xảy ra khắp nơi.
Gần trạm xe điện Petrus Ký, ở số 98 đại lộ Galliéni (Trần Hưng Đạo)
là trụ sở của hội Hội Đức Trí Thể Dục (S.A.M.I.P.I.C tức Société
d’Amélioration Morale, Intellectuelle et Physique des Indigènes de
Cochinchine). Xưa kia ở trụ sở hội này là nền móng của một chùa cổ Cao
Miên, tại đây khi đào đất đã tìm thấy các cổ vật như cây đèn đồng, ngạch
cửa đá (3). Hội Đức Trí Thể Dục do ông Nguyễn Khắc Nương (nghị viên hội
đồng thành phố), kĩ sư Lưu Văn Lang và một số trí thức Nam Kỳ thành lập
năm 1926 (Lưu Văn Lang ngày nay cũng là tên đường ngang hông chợ Bến
Thành). Ông Nguyễn Khắc Nương cũng là người viết vở tuồng hát bội cải
cách (tiền thân của cải lương) Ngô Công Nhược mắc lừa năm 1920 trên báo
Nông Cổ Mín Đàm .
Trong thập niên 1930, S.A.M.I.P.I.C là nơi có các buổi hội thảo, nói
chuyện và hội họp của nhiều trí thức, sinh viên học sinh ở Nam Kỳ. Các
ông Tạ Thu Thâu và Phan Văn Hùm đã từng nói chuyện tại đây vào năm 1932
về triết học biện chứng thu hút nhiều thính giả. Và nổi tiếng nhất là
các cuộc nói chuyện và tranh cãi về thơ mới – thơ cũ rất sôi nổi vào năm
1935 giữa Nguyễn Văn Hanh và cô Nguyễn Thị Kiêm mà sau đó tờ Phong Hóa
của Tự Lực văn đoàn đã nhảy vào ủng hộ phong trào thơ mới.
Trong số các sinh viên học sinh trường Petrus Ký lập ra phong trào
Câu lạc bộ học sinh với tên phổ biến là Scola Club, và dùng trụ sở của
Hội S.A.M.I.P.I.C làm nơi sinh hoạt hội họp, là các ông Huỳnh Văn Tiểng,
Mai Văn Bộ và Lưu Hữu Phước. Ông Trần Văn Khê cũng là một trong những
người điều khiển ban nhạc của Scola Club. Hội S.A.M.I.P.I.C cũng cấp
nhiều học bổng cho các học sinh sinh viên học ở các trường trên toàn cõi
Đông Dương. Tiểu ban mỹ thuật của Hội cũng tổ chức nhiều buổi trình
diễn âm nhạc, kịch, như độc tấu dương cầm và các sang tác mới nhạc cải
cách của các nhạc sĩ tân nhạc.
Từ đường Trần Hưng Đạo, xe điện chạy thẳng vào đường Đồng Khánh (rue
des Marins) sau này là Trần Hưng Đạo nối dài, qua khu Đại Thế Giới nay
là khu Cát Tường và đường Tản Đà (rue de Jaccario). Qua nhà hàng và
khách sạn Arc-En-Ciel, đến đường Tổng Đốc Phương (nay gọi là Châu Văn
Liêm) thì quẹo qua trái mới đến Bưu Điện Chợ Lớn. Sau đó là nhà ga cuối
cùng là Gare Rodier, tại Kinh Tàu , nay là bến xe Chợ Lớn.
Một địa điểm lịch sử quan trọng trên đường Trần Hưng Đạo là rạp hát
Nguyễn Văn Hảo (nay là rạp Công Nhân). Ngay tại rạp này, sau khi Nhật
đầu hàng Đồng minh, vào ngày 20/8/1945, trước hàng ngàn người tụ tập
quanh rạp, Mặt trận Việt Minh công khai kêu gọi khởi nghĩa giành chính
quyền. Chỉ vài ngày sau, ngày 25/8/1945, chính quyền hoàn toàn vào tay
nhân dân Sài Gòn với hàng trăm ngàn người đổ ra đường mừng phấn khởi,
như cảm thấy thời cơ mới của dân tộc Việt Nam đã đến sau bao nhiêu năm
nhục nhã u tối. Già trẻ, nam nữ, mọi thành phần trong xã hội đều tự động
ra đường, đi khắp phố phường. Họ phấn khởi, vui mừng, đi như chào đón
một tương lai độc lập mở ra cho đất nước và mọi người. Một không khí
không thể diễn tả, như hồn dân tộc thức tỉnh, hồi sinh. Cách mạng tháng 8
xảy ra trên khắp đất nước nhất thời đồng bộ, một sự kiện hi hữu trong
lịch sử Việt Nam.
Các đường xe lửa đã có ảnh hưởng lớn vào sự phát triển kinh tế và xã
hội, nhất là đường xe lửa Sài Gòn – Mỹ Tho nối Sài Gòn với Mỹ Tho và từ
đó đi các tỉnh miền Tây bằng xe đò. Chung quanh ga Sài Gòn, gần chợ Bến
Thành, mọc lên các cửa tiệm, hàng quán, nhà nghỉ. Người từ khắp lục tỉnh
Nam Kỳ xuống Sài Gòn đều đến nơi đây : các chủ vựa, nhà buôn, điền chủ,
chủ hãng, công nhân, học sinh lên Sài Gòn học… Hàng quán nổi tiếng gần
và sau chợ Sài Gòn là các nhà hàng Quảng Hạp, Đông Pháp lữ quán ở đường
d’Espagne (Lê Thánh Tôn), nhà hàng Cửu Long Giang đường Aviateur Garros
(Thủ Khoa Huân). Nhà hàng Quảng Hạp bán cơm tây rất ngon và đông khách
do chủ là người Hoa gốc Hải Nam đã là đầu bếp trước đây của viên thống
đốc Cognacq xin nghỉ để mở nhà hàng. Đông Pháp lữ quán nổi tiếng với chủ
và cát-chê (cashier) là cô Yvette Ba Trà, người đẹp Sài Gòn đã làm bao
nhiêu điền chủ, địa chủ, công tử khắp nơi ở lục tỉnh mê mệt .
Một nhân chứng viết về quang cảnh, con người, cách ăn mặc và đời sống
ở Sài Gòn, dưới góc độ của một người du khách là bà Gabrielle Vassal,
viếng nơi đây vào năm 1906. Gabrielle Vassal là phụ nữ người Anh theo
chồng là bác sĩ người Pháp đến viện Pasteur ở Nha Trang làm việc từ năm
1906 đến 1911. Trong lúc tàu ghé Sài Gòn và ở 3 ngày tại viện Pasteur đã
tả về cuộc sống và quang cảnh trong thành phố). Khi tàu cặp bến cảng
Sài Gòn, so với các cảng khác như Colombo, Singapore… bà rất ngạc nhiên
khi thấy hầu như cả Sài Gòn náo nhiệt ra bến tàu đón như là một sự kiện
lớn. Một số đến đón bạn, người thân, một số ra để làm quen và rất nhiều
ra để xem. Ngay trên tàu trước khi xuống, bà đã thấy theo sau chồng bà
đã có năm hay sáu người Việt và Hoa, đều là thợ may, họ đều muốn làm các
bộ quần áo trắng cho ông Vassal trong thời gian rất ngắn. Các người thợ
may Việt, môi đều đỏ đậm và xưng lớn vì nhai trầu và răng nhuộm đen
(chú thích : đến giữa thế kỷ 20 tục ăn trầu mới biến mất hoàn toàn). Họ
tranh giành may cho ông Vassal, trong đó một người nói chỉ trong vòng 24
tiếng là một chục bộ đồ veste trắng sẽ sẵng sàng giao ngay. Để có thể
yên, ông Vassal lấy 3 bộ từ một thợ nói dai và quấy rầy nhất.
Sau khi kêu xe ngựa malabar đến phòng nghỉ ở viện Pasteur, vợ chồng
Vassal được giám đốc Viện cho mượn xe ngựa của Viện để đi tour mà nhiều
người trước đó ở bến tàu đã đi. Tour này gọi là Tour d’Inspection nổi
tiếng ở Sài Gòn cho du khách. Bà Vassal đã tả những gì bà quan sát về
quang cảnh và con người trên xe ngựa như sau :“ Một trong những đường mà
chúng tôi đi có trồng phượng vĩ, đang trong mùa trổ hoa nở rộ. Thật là
một màu rực rỡ bột phát ; sự rực rỡ đẹp như vậy là quá sức tưởng tượng
của bất cứ ai chưa từng ở vùng nhiệt đới, hàng đống hàng đống các hoa mỹ
nhân đỏ (red poppy hay coquelicot) cũng không thể so sánh được như thế.
Cũng chính qua buổi đi dạo xe ngựa này, tôi cũng làm quen đầu tiên với
các cây dừa cao, những bụi tre phong nhã, và các cây nhiệt đới khác….
Nhưng những người bản xứ trên đường là làm chúng tôi chú ý liên tục.
Đa số họ đang trở về một làng kế cận ngoài trung tâm Sài Gòn sau một
ngày làm việc. Trong số họ, tôi thấy có những người thông ngôn, với tóc
cắt ngắn, đội khăn đen xếp theo từng lớp thật tuyệt đối đều bằng nhau
chung quanh đầu họ, mặc áo dài đen, quần trắng, và mang giày Âu với vớ.
Một sự kiện đáng chú ý là các giày của người An Nam, nếu họ mang, đều
trông như thật là mới, như là vừa mới mua ở tiệm, và cũng là kiểu mới
nhất.
Kế tiếp là có những người “nha que” (nhà quê) mặc áo xanh da trời,
nhưng thường vá nhiều nơi nên chỉ còn rất ít là màu da trời còn lại, và
mặc quần dơ chưa giặt. Họ đi bộ dọc bên đường người này sau người nọ. Họ
mang chân không, và nếu thỉnh thoảng một trong số họ hãnh diện là chủ
nhân của một đôi giày Trung Hoa không gót (chú thích: đôi giép), thì họ
cầm ở trên một tay của họ. Còn tay kia, họ cầm một cái dù, ngay cả khi
mặt trời đã biến mất từ lâu, dù vẫn được giữ cao trên đầu họ. Ý tưởng về
một cá nhân đơn độc đi trịnh trọng giữa buổi tranh tối tranh sang với
cái dù vẫn còn trên đầu không bao giờ ngừng làm tôi vui. Thay vì khăn
đóng, những người công nhân cu-li (coolies) có một khăn mặt hay một mảnh
vải dơ cuốn sơ sài quanh đầu, hé cho thấy búi tóc không được gọn ghẽ ở
dưới.
Những người đàn bà, cũng như đàn ông, không bao giờ đi hai người kế
bên ; chúng tôi gặp một nhóm nhỏ năm hay sáu người hấp tấp đi về nhà từ
chợ xa nào đó. Họ gánh các giỏ tròn đan cây treo trên đòn tre trên một
vai họ, và mặc dầu sức nặng trĩu về một bên trên cơ thể, họ vẫn đi tới
với tướng đi đong đu qua lại. Cánh tay bên kia, uốn cong ở khuỷu tay,
đong đưa mạnh mẽ qua lại để cân bằng sức nặng bên khiêng. Để thay đòn
tre từ vai này sang vai kia, họ đi chậm lại, nghiêng đầu về phía trước
và đẩy đòn tre qua sau cổ họ. Tôi ít khi thấy một người đàn bà để đòn
gánh giỏ của họ xuống đất và gánh lên lại lần nữa.
Những người đàn bà bản xứ ở giai cấp giàu hơn đi qua nhanh trước mặt
tôi, trên những chiếc xe kéo (rickshaw), một vài người với khăn vải lụa
màu sáng cài dưới cằm, số khác trên búi tóc trang trí các nữ trang bản
xứ, hay được gắn bởi một kẹp bằng bạc, vì quá nhiều trang sức như thế
nên không thể mang khăn đầu được.
Khi những tia sáng cuối cùng của hoàng hôn chiếu nghiêng nghiêng đứng
bóng từ hướng tây, các nhóm nhỏ gia đình người An Nam tụ tập bên ngoài
các chòi nhà của họ, và ngồi chồm hổm chung quanh các tô cá và cơm, họ
ăn buổi ăn tối gia đình. Trong trường hợp khi thức ăn chưa sẵn sàng,
hoàn tất và người mẹ vẫn còn đang nấu, người cha, hay ngay cả ông nội,
được chúng tôi thấy đang chăm sóc mấy đứa trẻ, đong đua đứa trẻ trong
tay họ và hát cho chúng nghe. Ánh sáng mờ nhạt làm tăng thêm sự thơ mộng
và vẽ đẹp huyền ảo của nhóm gia đình nhỏ thân mật.
Màn đêm bắt đầu buông xuống, các đền thờ Phật bên trong nhà chòi được
thắp sáng, những bức tượng thô hay những ảnh màu của những vị thờ
phượng được thấy rõ từ ngoài đường. Các điểm sáng trước các tượng, hình
ảnh cho thấy các cây nến đang cháy sáng, khói bốc lên làm tăng tác dụng
cho các người cúng các thần linh. Thỉnh thoảng hương nhang tỏa lan ra
qua bên đường, và mùi nhang thơm trộn lẫn với những mùi thơm lạ và hấp
dẫn của buổi chiều tối vùng nhiệt đới thêm vào cảm giác say mê thích thú
xâm nhập khắp mọi nơi…..
Đang cập nhật
Xin hết.
Tác giả : Nguyễn Đức Hiệp
No comments:
Post a Comment