Ngày 30-4 lại sắp đến. Mới đó mà đã hơn bốn mươi năm rồi. Mỗi khi
ngày này sắp đến, không ít thì nhiều trong lòng mỗi người Việt tha hương
đều dấy lên một nỗi ngậm ngùi không tả được và những kỷ niệm cũ vào
những ngày cuối cùng trước khi mất nước lại hiện về. Không biết ai là
người đầu tiên đã dùng từ “Tháng Tư Đen” để ám chỉ cho tháng Tư năm
1975? Nghe sao thấm thía quá! Riêng đối
với những người đã trải qua mấy ngày cuối cùng tại Saigon thì còn đặc
biệt hơn nữa, vì đã cùng với Saigon sống những giờ phút thấp thỏm, lo âu
nhất trong cuộc đời của họ và đã chứng kiến giây phút cuối của Saigon
như thế nào! Mỗi người có thể nhìn và cảm nhận sự kiện ở những góc độ
khác nhau, nhưng có một điểm chung mà có lẽ ai cũng có thể thấy được: Đó
là sự phản bội, bỏ rơi VN của Đồng Minh mà đại diện là chính phủ Mỹ,
cộng với hàng lãnh đạo kém tài trong chính quyền VNCH đã đưa tới sự bế
tắc, sụp đổ toàn diện và cuối cùng chấm dứt bằng một lệnh đầu hàng vô
điều kiện.
______________________________________
Trong phạm vi bài viết này, tôi chỉ muốn ghi lại những gì mình đã trải
qua vào mấy ngày cuối tháng Tư oan nghiệt và vài hình ảnh của Saigon sau
khi thất thủ mà đối với cá nhân tôi, khó lòng có thể quên được.
Tình hình Saigon vào những ngày cuối tháng Tư năm 1975 rất là căng
thẳng. Tin tức chiến sự bất lợi loan ra hàng ngày và những tin đồn làm
cho người Saigon có thể cảm nhận được không khí chiến tranh đang càng
lúc càng nhích gần tới thủ đô, cộng thêm sự thay đổi trong hàng tướng
lãnh đã làm cho dân chúng bấn loạn thêm hơn. Không ai bảo ai nhưng nhà
nào nhà nấy cũng đều cố gắng mua trữ gạo, mắm muối phòng hờ loạn lạc xảy
đến. Chưa bao giờ người dân Saigon cảm nhận được không khí chiến tranh
chết chóc đến gần với họ đến như vậy, nên ai nấy đều nhốn nháo không
yên.
Hầu như gia đình nào cũng có người thân liên quan tới cuộc chiến và
còn đang kẹt ở một nơi nào đó. Hy vọng duy nhất của họ là Chính phủ và
Quân đội. Tuy nhiên niềm tin trong dân chúng cũng mất dần khi tin tức
các hàng lãnh đạo cao cấp trong Chính phủ và một số tướng lãnh bỏ trốn
gần như mỗi ngày. Thêm vào đó tin tức những cuộc di tản chiến thuật liên
tục đưa về, làm cho người dân Saigon càng bấn loạn hơn. Kể từ khi Phan
Rang, được coi là tuyến phòng thủ quan trọng cuối cùng bị sụp đổ, nối
tiếp theo các thành phố Phan Rí, Phan Thiết cũng rơi vào tay giặc, đã
bắt đầu phác họa trong đầu người dân Saigon một viễn ảnh đen tối của
Saigon thất thủ. Chính phủ đã cố gắng trấn an dân chúng trên đài phát
thanh, truyền hình về mật trận cố thủ mới ở Long Khánh, Xuân Lộc… nhưng
hình như vẫn không đủ sức làm an lòng mọi người.
Sau khi phi trường Phan Rang thất thủ ngày 16 tháng 4 năm 1975, tôi
còn bị kẹt lại ở Phan Rang. Khi nghe tin Phan Thiết bị mất, tôi liền đón
xe đò đi Phan Thiết rồi tìm cách mướn ghe về Long Hải. Tại đây đã thấy
lính tráng và dân chúng từ các tỉnh miền Trung chạy về cắm lều ở đầy
trên bãi biển và mọi ngã đường. Một số lớn quân nhân tan hàng từ các nơi
tìm cách len lõi về Saigon đều bị chận lại từ nhiều nút chận của quân
cảnh hỗn hợp ở ngã ba Vũng Tàu và trên xa lộ Biên Hòa. Xe đò của tôi
cũng bị chận lại. Tôi may mắn còn giữ được giấy Chứng chỉ tại ngũ và vì
đơn vị Không quân của tôi hiện nay là đơn vị thặng số phải trình diện
tại Tân Sơn Nhất nên được Quân cảnh cho đi qua.
Tôi về tới Saigon khoảng 10 giờ sáng ngày 24 tháng 4 năm 1975, khỏi
nói thì cả nhà vui mừng biết là chừng nào! Nhất là vợ tôi đang mang bầu
sắp sanh, mấy ngày qua đã lo lắng cho tôi vô cùng khi nghe tin Phan Rang
thất thủ mà tôi vẫn còn kẹt chưa về được. Tình hình Saigon lúc này đã
xôn xao lắm rồi. Đi đâu cũng gặp người dân với gương mặt lộ vẻ bất an,
lo sợ cho một tương lai đen tối trong những ngày sắp tới. Kể từ khi Tổng
Thống Nguyễn Văn Thiệu từ chức ngày 21-4-1975, tiếp theo đó hàng loạt
các cán bộ cao cấp trong Chính phủ và các Tướng lãnh nối đuôi nhau trốn
chạy ra nước ngoài càng gây thêm hoang mang lo sợ cho người dân.
Người ta nói nhiều tới chuyện di tản vào những ngày này. Những ai có
liên hệ ít nhiều với Mỹ trước đây đều hy vọng được Mỹ bốc đi. Ở bên
ngoài Toà Đại Sứ Mỹ thì lúc nào cũng đông nghẹt người chờ cơ hội để được
di tản. Vàng và đô la tăng giá vùn vụt gần như mỗi giờ. Tất cả những
giấy tờ gì có liên quan tới Mỹ như passports, giấy chứng nhận công nhân
viên làm việc cho hãng Mỹ… tất cả đều được nhiều người sẵn sàng bỏ tiền,
vàng ra mua với giá thật cao… Người ta hy vọng rằng những thứ này sẽ là
bằng chứng cụ thể chứng minh cho sự liên hệ của họ trước đây với người
Mỹ và nhờ thế người Mỹ sẽ bốc họ đi.
Ngày 26 tháng 4 tôi vào Tân Sơn Nhất trình diện. Bên trong Tân Sơn
Nhất, tình trạng cũng rất lộn xộn. Quân nhân các cấp từ những đơn vị
khác ở phi trường Đà Nẳng, Phù Cát, Nha Trang, Phan Rang đều tập trung
về Tân Sơn Nhất đông nghẹt. Tất cả quân nhân ở những phi trường này đều
trở thành đơn vị thặng số. Đa số không có việc gì làm. Buổi sáng tất cả
phải vào trình diện điểm danh, đến chiều điểm danh lần nữa rồi được phát
giấy xuất trại ngày mai vào trình diện tiếp… cứ đều đều như thế. Tôi
phải hỏi thăm 2,3 lần mới tìm được đến nơi tôi trình diện. Đó là một dãy
lều lớn, bên trong đầy cả người đang bu quanh những chiếc bàn nhỏ đại
diện cho Phòng Nhân Viên của các đơn vị. Tôi chen chúc đến trước một bàn
giấy dành cho phòng nhân viên CC20CTKQ. Sau khi trình diện báo cáo lý
do, thời gian bị kẹt ở Phan Rang vừa qua phải chạy đường bộ và đường ghe
về… tôi được cấp cho một giấy chứng nhận. Sau đó tôi đi tìm ban Quân
Lương của đơn vị để lãnh lương, vì thông thường ngày phát lương của
chúng tôi là ngày 24 tây mỗi tháng.
Hôm đó đã là 26 tây rồi. Đi vòng vòng hỏi thăm, cuối cùng có người
cho biết vì những thủ tục và trường hợp đặc biệt của vấn đề di tản từ
Phan Rang chạy về vừa rồi, nên ban Quân Lương chưa phát lương kịp cho
quân nhân ở CC20CTKQ đầy đủ được. Một số may mắn đã có tên và được phát
lương rồi, những ai chưa lãnh thì phải đợi tới mai. Những quân nhân có
thân nhân, gia đình ở Saigon thì còn đỡ, nhưng một số lớn Quân nhân ở xa
chạy về, nhất là những người có gia đình vợ con, lại không có thân nhân
ở Saigon mà tiền bạc thì đã tiêu hết trong khi di tản đến nay… Nhưng có
khiếu nại cũng không ai giải quyết được gì trong lúc này. Dù có lo
lắng, hoang mang, hoặc thậm chí có nhiều người bực tức lớn tiếng khiếu
nại… cũng chỉ được hứa hẹn là đợi đến ngày mai, nên tất cả cuối cùng
cũng đành phải chịu thôi.
Tôi gặp lại một số Sĩ quan trong Đoàn Phòng Vệ cùng đơn vị với tôi ở
Phan Rang là Trung Úy Trần Ngọc Bảo, Thiếu Uý Nguyễn Thành Lân, Thiếu Úy
Nguyễn Văn Lộc, Thiếu Úy Nguyễn Văn Khoa và nhiều binh sĩ hạ sĩ quan
khác trong đơn vị. Chúng tôi mừng rỡ hỏi thăm tin tức lẫn nhau. Trung Úy
Bảo theo trực thăng về trước khi Phi Trường Phan Rang thất thủ mấy
tiếng đồng hồ vì em ruột của anh bị tử trận, nhờ thế anh không bị kẹt
lại như tôi. Tôi cũng gặp Thu, người lính đã cùng với tôi chạy bộ và bị
bắt trong rừng sau khi phi trường Phan Rang thất thủ. Hai đứa chúng tôi
vui mừng hỏi thăm nhau và kể lại câu chuyện tháp tùng theo toán quân
Nhảy Dù chạy trong rừng sau khi có lệnh bỏ phi trường… cho những người
khác nghe.
Cả đám Quân nhân thặng số chúng tôi quanh quẩn hồi lâu vẫn không có
chỉ thị gì mới. Một Sĩ Quan phòng Nhân Viên đơn vị thặng số bảo chúng
tôi có thể giải tán muốn đi đâu thì đi, chiều đến điểm danh trở lại. Tuy
nhiên chúng tôi cũng chỉ lòng vòng ở những câu lạc bộ uống cà phê giết
thì giờ chứ cũng không biết làm gì.
Lúc này đã có nhiều tin đồn về một cuộc di tản khổng lồ, không ai
biết là sẽ đi đâu. Có người nói đi ra đảo Phú Quốc, có người nói đi Mỹ…
Có người nói nếu ở lại, ban đêm C130 sẽ xuống bốc đi hết… Ôi thôi, đủ
thứ tin đồn. Trong lòng tôi quả thật hoang mang lắm. Với tình hình hiện
tại, tin đồn nào nghe cũng có lý cả! Thử hỏi cả một đám đông quân nhân
thặng số hỗn tạp như vầy làm sao ở Tân Sơn Nhất có thể giải quyết hết
nỗi. Chắc chắn phải có một giải pháp nào đó an bài cho chúng tôi thôi.
Có người lại nói chúng tôi sẽ được phân phối đi đến khắp các phi trường
còn lại như Biên Hoà, Bình Thủy, Trà Nóc… Nhưng không có một tin tức gì
chính xác cả. Lúc này phải chi có vị Sĩ quan cao cấp nào đó trong đơn vị
cũ xuất hiện, chắc cũng trấn an Quân nhân thuộc quyền của mình rất
nhiều !!
Buổi chiều chúng tôi lại trở về tụ tập trước dãy lều nơi trình diện,
ngóng chờ tin tức. Vẫn không có lệnh lạc gì rõ ràng cả. Nếu có hỏi thăm
thì cũng chỉ được trả lời là: “Chờ chỉ thị mới!”. Khoảng 3 giờ chiều sau
khi điểm danh xong. Những quân nhân nào không có nhà hoặc thân nhân ở
Saigon thì nếu ở lại trong Tân Sơn Nhất sẽ được cung cấp chỗ tạm trú.
Những người khác có thân nhân hoặc gia đình ở Saigon thì được phát mỗi
người một giấy xuất trại, ngày mai vào trình diện chờ lệnh tiếp. Tôi cảm
thấy nhẹ nhỏm với tin này vì không muốn bị kẹt lại trong Tân Sơn Nhất
chút nào hết.
Qua hôm sau 27 tháng 4 tôi lại vào Tân Sơn Nhất trình diện tiếp và
cũng vẫn không lãnh lương được. Lần này mọi người có vẻ xao động hơn vì
có nhiều tin đồn đêm qua phi cơ C130 đã xuống và bốc đi một số Quân
nhân. Không biết số người được bốc đi là thành phần gì và không biết đi
đâu? Rất nhiều người nói là đi Mỹ. Tin đồn đó không biết có thật hay
không, nhưng rõ ràng làm mọi người hoang mang thật sự. Có nhiều người
còn cho biết vị Sĩ Quan có nhiệm vụ phát lương cho chúng tôi đã được phi
cơ bốc đi đêm qua rồi? Một số đông quân nhân bàn tán là sẽ ở lại đêm
nay để xem có thể tìm cách đi được không? Riêng tôi thì chỉ mong sẽ
không có lệnh cấm quân gắt gao để có thể về nhà với gia đình. Vợ tôi ở
nhà mang bầu sắp sanh thì tôi còn lòng dạ nào mà nghĩ tới chuyện đi đâu.
Khoảng 3 giờ chiều, giống như ngày hôm trước, sau khi điểm danh chúng
tôi lại được phòng nhân viên đơn vị thặng số cấp giấy xuất trại ngày mai
vào trình diện tiếp.
Tôi lái xe Honda ra khỏi cổng Phi Long, vừa đến khu Lăng Cha Cả thì
gặp mấy chiếc xe bus chở gia đình Mỹ và Việt Nam đang bị kẹt xe dừng
lại. Người bên đường gần khu Lăng Cha Cả đứng xem, chỉ trỏ bàn tán lung
tung. Tôi ghé vào hỏi thăm thì nghe họ nói mấy chiếc xe bus này chở
người di tản qua Mỹ. Tôi tò mò chạy theo sau thì thấy đoàn xe đi vào
cổng của cơ quan DAO. Những người có danh sách đi Mỹ bị Quân Cảnh Việt,
Mỹ phối hợp kiểm soát rất chặt chẽ trước khi cho vào cổng. Trên sân cỏ
bên ngoài, xe hơi đậu ngổn ngang. Một số dân chúng đứng chờ bên ngoài
tìm cơ hội vào lọt bên trong để được đi Mỹ. Không biết họ chờ đợi bên
ngoài như vậy có cơ hội nào len vào được hay không? Tuy nhiên tôi thấy
số người đứng chen chúc ở bên ngoài khá đông.
Buổi chiều Saigon những ngày này trời thường u ám như sắp chuyển mưa.
Tuy thế vẫn không làm dịu bớt được sự ngột ngạt oi bức, cộng với tình
hình bất ổn lúc bấy giờ càng làm cho người dân Saigon có cảm tưởng như
không khí nặng nề, khó thở hơn. Người ta có thể ví Saigon vào những ngày
cuối tháng Tư này như một cái chảo đặt trên lửa, đang nóng dần lên và
dân chúng như đàn kiến loi ngoi trong đó, không lối thoát! Những cửa ngõ
duy nhất có thể thoát ra khỏi Saigon như Toà Đại Sứ Mỹ, khu DAO ở gần
Air Vietnam và bến Bạch Đằng thì lúc nào cũng đông nghẹt người chen chúc
chờ đợi một cơ hội cuối cùng. Đa số là thành phần trong chính quyền cao
cấp, hoặc những người có liên hệ với Mỹ trước đây…
Còn người dân bình thường khác chỉ biết hy vọng một giải pháp nào đó
của chính phủ và tất cả hy vọng, chờ đợi trong nỗi hoang mang lo âu.
Nhưng giải pháp nào có thể cứu vãn được đây?? Tôi lái xe đi qua những
con đường quen thuộc của Saigon mà có cảm tưởng như đang lạc lõng trong
một thành phố xa lạ nào khác. Không khí vẫn ngột ngạt, oi bức một cách
khác thường. Phải chi trời có thể mưa một trận thật lớn thì hay quá!
Sáng ngày 28 tháng 4 tôi lại vào Tân Sơn Nhất để trình diện như hôm
trước thì bị Quân Cảnh ngăn không cho vào nữa. Lần này lệnh cấm quân gắt
gao hơn. Cho dù tôi đưa giấy tờ ra chứng minh và nói là tôi được lệnh
trình diện hôm nay, vẫn bị Quân Cảnh đuổi trở ra. Chỉ có Quân nhân cơ
hữu của Tân Sơn Nhất mới được phép vào và sẽ không trở ra được nữa. Tôi
và một số Quân nhân khác cũng thuộc đơn vị thặng số đứng lố nhố một chút
rồi đành phải giải tán mà lòng thì lo lắng vô cùng. Có tin nhiều phi cơ
chiến đấu phản lực từ Biên Hòa đã phải dời về Tân Sơn Nhất để tránh áp
lực pháo kích của địch. Điều này cho biết tình hình chiến sự không thuận
lợi chút nào và càng lúc quân CSBV càng áp lực nặng nề hơn lên thủ đô
Saigon.
Lại có tin đồn miền Tây sẽ là cứ điểm cố thủ, một số Tướng lãnh đã
nhận nhiệm vụ di chuyển quân và khí giới về miền Tây lập phòng tuyến cố
thủ nếu Saigon có mệnh hệ gì… Chưa bao giờ người Saigon phải sống với
nhiều tin đồn đến như thế. Buồn thay! Không có tin nào lạc quan cả… Đầu
óc trống rỗng, tôi lái xe đi giữa Saigon nơi tôi đã sinh ra và lớn lên.
Nhìn thành phố thân yêu đang giẩy dụa một cách tuyệt vọng trong khi vòng
vây của địch quân bên ngoài đang siết dần mà lòng cảm thấy bất an vô
cùng vì biết rằng chính mình cũng đang bị dồn vào một ngõ cụt không lối
thoát!
Tin tức trên đài phát thanh cho biết chính phủ Trần Văn Hương công bố
sẽ bàn giao chức vụ Tổng Thống lại cho Đại Tướng Dương Văn Minh. Khoảng
5:30 chiều ngày 28-4-75, trong lúc lễ bàn giao Tổng Thống đang xảy ra
trong dinh Độc Lập thì bên ngoài trời bỗng đổ mưa. Bầu trời u ám như báo
trước một điều không may sắp xảy ra. Chính phủ mới sẽ làm gì được đây?
Một chính phủ hoà giải có thực sự cứu vãn được cục diện không? Người dân
Saigon lúc này gần như đã mất lòng tin vào chính phủ rất nhiều. Sự thay
đổi thành phần nội các trong chính phủ và tướng lãnh trong quân đội
nhanh đến độ người dân chưa kịp nhớ tên một Bộ trưởng hoặc Tổng Tham Mưu
Trưởng thì đã có sự thay đổi mới nữa rồi!!
Đêm 28-04-75. Lần đầu tiên chúng tôi nghe rõ tiếng nổ vang vọng của
nhiều đợt pháo kích liên tục bắn vào. Hình như quân CS đã bắn pháo vào
phi trường Tân Sơn Nhất. Nhà tôi ở kế bên Đại Học Kỹ Thuật Phú Thọ,
không xa vòng đai Tân Sơn Nhất, nên trong đêm tối nghe tiếng đạn pháo
kích rất rõ. Vòng đai phòng thủ của Saigon hình như không còn đủ sức bảo
vệ an toàn cho thủ đô nữa. Chiến tranh đã thực sự tiến vào sát cửa ngõ
Saigon rồi. Trong đêm tối nghe tiếng đạn pháo kích và thỉnh thoảng chen
vào những tràng súng nhỏ khiến tôi không khỏi liên tưởng đến Tết Mậu
Thân 1968. Trận chiến Mậu Thân, chúng ta đã đẩy lùi được địch quân ra
khỏi thành phố thân yêu. Còn trận chiến này sẽ ra sao ?? Chắc chắn nhiều
người dân Saigon đã tự hỏi như thế, nhưng không ai có thể trả lời! Chỉ
có tiếng thở dài trong đêm chen lẫn tiếng pháo kích và tiếng súng từ xa
vọng về.
Sáng sớm ngày 29 tháng 4. Thỉnh thoảng vẫn còn nghe tiếng pháo kích
vẳng lại. Thiết quân lực 24/24 được ban ra, tuy nhiên trên đường phố vẫn
lảng vảng có dân chúng qua lại và xe cộ vẫn thấy chạy trên đường phố.
Tổng Thống Dương Văn Minh lên đài đọc diễn văn yêu cầu người Mỹ rút khỏi
VN trong vòng 24 tiếng đồng hồ vì không còn bảo đảm an ninh cho họ được
nữa. Như vậy là người Mỹ đã có cớ rút lui và danh chính ngôn thuận bỏ
rơi VN rồi!! Nằm trong nhà chúng tôi nghe rõ tiếng trực thăng vần vũ
liên tục trên bầu trời mà lòng lo lắng, cảm thấy không còn hy vọng gì
hết.
Ngày 29-4-1975 này có thể coi như ngày Saigon thực sự giẩy chết, sau
khi Tổng Thống đọc diễn văn yêu cầu người Mỹ rút lui dọn đường cho ngày
kế tiếp 30-4 tủi nhục nhất trong lịch sử cận đại của người dân miền Nam
Việt Nam. Đồng thời chấm dứt cột mốc của tình hữu nghị Đồng Minh giữa
Việt Nam và Hoa Kỳ sau bao năm sát cánh chiến đấu bên nhau. Chức vụ Tổng
Thống bàn giao cho Tướng Dương Văn Minh rốt cuộc chỉ là một sự dàn xếp
để lót đường cho Mỹ rút lui trong danh dự và một sự đầu hàng đã được dự
tính từ trước.!!
Rạng sáng ngày 30-4-1975, chung quanh khu cư xá Tô Hiến Thành, Phú
Thọ không biết bên ngoài có chuyện gì mà súng cứ râm rang nổ cả đêm. Mới
sáng sớm đã có mấy người hàng xóm qua nhà tôi cho hay là mọi ngã đường
từ khu cư xá Tô Hiến Thành nơi chúng tôi đang ở ra bên ngoài trường Đại
Học Kỹ thuật Phú Thọ, hoặc đi ngược lại hướng chợ Hòa Hưng đều bị lính
gác giăng kẽm gai chận lại không cho bất cứ ai ra vào. Cả nhà tôi rất lo
âu với tin này. Với tình hình vợ tôi sắp sanh hiện nay mà đường xá bị
ngăn cấm như thế bảo sao không lo âu cho được. Cuối cùng Má tôi phải
chuẩn bị mọi thứ sẵn sàng cho một cuộc đỡ đẻ tại nhà để phòng hờ nếu vợ
tôi chuyển bụng mà không đưa đi Bệnh viện được.
Không còn đi đâu được, cả nhà chỉ biết bám vào màn ảnh truyền hình và
mở radio ra theo dõi tin tức. Đến khoảng 10 giờ sáng thì có lệnh của
Tổng Thống Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng. Tôi bàng hoàng như người
mất hồn bởi cái tin đầu hàng vô điều kiện của Tổng Thống. Như vậy Saigon
đã thật sự thất thủ rồi sao? Mấy ngày qua, cũng như bao người dân
Saigon khác, tôi đã lo lắng, hoang mang và đau đớn khi nhìn thấy thành
phố thân yêu của mình đang oằn oại trong cơn hấp hối. Tuy nhiên tôi vẫn
không bao giờ nghĩ một lệnh đầu hàng như thế lại có thể xảy ra. Tôi vẫn
thầm mong một giải pháp nào đó có thể cứu vãn được tình thế. Dù tin tức
chiến cuộc đưa về nhiều bất lợi, dù súng đạn không đủ, nhưng biết bao
chiến sĩ vẫn còn đang ghìm tay súng và chưa hề bỏ cuộc. Tại sao lại phải
bức tử Saigon của chúng tôi như thế này!! Saigon đã chết thật rồi sao?
Sau khi từ Phan Rang về được Saigon ngày 24-4-1975, tôi đã có cảm giác
an toàn trong lòng Saigon.
Ngay sau đó tôi cũng đã thấy được sự bế tắc của chính phủ qua những
thay đổi thành phần nội các cũng như chức vụ của các Tướng lãnh cộng
thêm áp lực nặng nề của quân địch bên ngoài… nhưng chưa bao giờ tôi nghĩ
rằng Saigon phải bị bức tử một cách tức tưởi như vậy! Tôi vẫn hy vọng
Quốc tế cũng như quân đội Đồng Minh sẽ không bỏ mặc Saigon và một giải
pháp nào đó được đưa ra kịp thời để cứu vãn tình hình! Tuy nhiên sự thật
phủ phàng cuối cùng cũng đã xảy ra rồi!
Người ta đã biện minh cho lệnh đầu hàng vào lúc này như là biện pháp
hay nhất nhằm cứu vãn Saigon tránh khỏi một biển máu! Nhưng than ôi! có
biết đâu nó đã khởi đầu một nỗi đau khổ triền miên khác cho dân chúng
miền Nam VN mà muôn ngàn lần còn tồi tệ hơn cái chết!!
Gia đình tôi lo sợ không biết tương lai của tôi rồi sẽ ra sao? Tôi
phải an ủi người thân để mọi người yên lòng mà trong bụng rõ ràng đang
bấn loạn, chưa biết phải tính như thế nào? Đến xế trưa, tôi nói với gia
đình để tôi ra ngoài xem tình hình ra sao, chứ ở trong nhà đâu biết được
tin tức gì. Cả nhà ngăn cản không cho đi. Tôi phải trấn an là nếu thấy
chuyện gì không ổn sẽ đi về ngay… Chiếc Honda Dame của tôi mới ra tới
quân y viện Trần Ngọc Minh thì một cảnh tượng vừa hỗn loạn vừa thương
tâm đang bày ra trước mắt. Dân chúng ở khu vực lân lận đang tấp nập ùa
vào Quân y viện để “hôi của”. Thôi thì mạnh ai vác được gì thì vác,
khuân được gì thì khuân. Thậm chí có những trẻ em không lấy nổi vật
nặng, cũng ráng ôm những vật nhẹ như quần áo bệnh nhân, chiếu gối… Trong
khi đó một đoàn thương bệnh binh âm thầm lặng lẽ dìu nhau từ trong Quân
Y Viện đi ra.
Người thì chống nạng tay chân còn băng bó tùm lum, kẻ thì ngồi xe lăn
được một thương binh khác đẩy đi… Có thương binh đầu còn băng bó kín
mít chỉ còn chừa một mắt, vừa khập khiểng đi, vừa ráng đẩy một thương
bệnh binh khác ngồi trên xe lăn với một thanh sắt cắm bên cạnh treo lơ
lửng một bình nước biển còn đang chuyền vào cơ thể của anh ta. Cứ thế
người còn khoẻ dìu người yếu bước từng bước lặng lẽ đi, bên cạnh đám
đông dân chúng đang la hét chạy tới chạy lui, vui mừng dành giựt nhau
những món đồ lấy cắp được. Cảnh tượng bi thương này là một cảnh tượng
suốt đời tôi khó mà quên được. Thân phận của người lính chiến VNCH sau
mà đau đớn quá vậy. Họ đã hy sinh tánh mạng, xương máu bảo vệ quê hương,
đến khi bị thương tích nằm trong bệnh viện cũng không yên.
Dân chúng chung quanh hình như không hề biết đến đoàn thương bệnh
binh này trước đây đã từng xả thân ngoài chiến trường để cho họ có được
những giây phút ấm êm với gia đình. Nay chỉ mới những giờ phút đổi đời
đầu tiên, đã không còn ai ngó ngàng tới họ nữa!! Hai mắt tôi cảm thấy
cay cay trước cảnh tượng đó, trong lòng dâng lên một nỗi chua xót, đau
buồn không tả được trước hình ảnh quá phủ phàng này!!.
Tôi chạy lòng vòng qua những đường phố một cách bất định. Đâu đâu
cũng thấy những hình ảnh đau lòng tương tự: Ở những cửa tiệm lớn và
những kho hàng, những thành phần bất hảo lợi dụng cơ hội này ra tay cướp
bóc thẳng tay. Mạnh ai nấy lấy. Mạnh ai nấy khiêng.. Nhìn những gương
mặt hí hửng của họ khi khuân vác những món hàng béo bở từ trong kho hoặc
cửa hàng nào đó đi ra mà thấy thật buồn. Một số bọn thời cơ 30-4, tay
đeo băng đỏ mang súng ống trên những chiếc xe Jeep chúng lấy được ở đâu
đó, chạy nghênh ngang trên đường. Còn người dân hiền hoà của Saigon thì
đa số chỉ biết từ trong nhà giương mắt nhìn những giây phút đổi đời đầu
tiên trong cảnh hỗn loạn với một trạng thái e dè, thụ động. Một điều mà
tôi không bao giờ ngờ là lá cờ MTGPMN nửa đỏ nửa xanh không biết ở đâu
được tung ra bán ngay trên nhiều ngả đường. Đúng là tụi CS nằm vùng đã
âm thầm làm chuyện này ngay lúc Saigon chưa thất thủ. Tôi không khỏi thở
dài! Một trong những nguyên nhân làm cho Saigon sụp đổ là đã quá dung
dưỡng cho bọn ăn cơm Quốc Gia thờ ma Cộng Sản này bấy lâu nay.
Trên đường phố thì đâu đâu cũng thấy súng ống, quân trang, quân dụng,
giày vớ lính vứt đầy khắp cả. Tôi lái xe gần như lúc nào cũng phải né
tránh những quân trang quân dụng này, nếu không sẽ chạy dẫm lên ngay.
Càng đau lòng hơn khi đến gần cầu Thị Nghè, tôi thấy xác của một người
lính nằm ở ven đường. Một người dân tốt bụng nào đó đã phủ lên một chiếc
chiếu nhỏ không đủ che hết thân xác anh. Qua màu áo rằn ri anh mặc, tôi
biết anh thuộc binh chủng Biệt Động Quân. Nhìn bát cơm trắng, đôi đũa
và mấy nén nhang còn đang cháy để trên đầu của người lính bạc số, tôi đã
rướm nước mắt khi đi ngang qua. Ôi! Còn hình ảnh nào thê lương hơn
những hình ảnh người Saigon đã chứng kiến trên đường phố ngày 30-4-75
hay không? Những bài ca kể về một ngày thanh bình lúc tàn cuộc chiến mà
tôi biết trước đây sao hoàn toàn trái ngược với những gì tôi đã thấy
vậy?
Qua khỏi ngã tư Bảy Hiền, ngang qua trại Hoàng Hoa Thám tôi không
khỏi bùi ngùi. Hình ảnh kiêu hùng của người chiến sĩ mũ đỏ ngày nào nay
không còn nữa. Phía trước cổng cũng thấy cảnh dân chúng đang hối hả ra
vào khiêng những đồ “hôi của”! Tôi định quay trở về nhà vì sợ gia đình
lo lắng, thì bỗng nhớ tới một người bạn thân là anh Huỳnh Văn Đông. Anh
Đông này là một trong hai người bạn thân tôi kết giao ngay ngày đầu tiên
khi tôi ra nhận đơn vị ở phi trường Phan Rang. Nhà ba anh ở gần khu ngã
tư Bảy Hiền. Tôi ghé vào hỏi thăm thì nghe người nhà anh cho biết một
tin thật chới với: Lúc sáng này, sau khi lệnh đầu hàng đưa ra không bao
lâu, anh Đông lấy xe gắn máy đi đến nhà một người bà con, thì một trong
những quả đạn pháo kích cuối cùng bắn vào Saigon đã rơi vào khu vực gần
đó và một mảnh đạn đã chặt đứt tay lái bên trái của chiếc Honda Dame anh
đang lái và… chặt đứt luôn bàn tay trái của anh. Vết cắt ngọt lịm như
người ta dùng dao chặt lên một trái chuối! Chuyện xảy ra nhanh đến nỗi
anh không kịp nhận thức chuyện gì đã xảy ra và chưa cảm thấy đau đớn
chút nào cả thì đã ngã nhào xuống đường rồi. Phải mấy giây sau anh mới
cảm thấy đau và phát giác bàn tay trái của mình đã bị chặt đứt bay đi
mất!! Lúc đó những người chung quanh nghe tiếng đạn pháo kích nổ thì lo
chạy kiếm chỗ núp hết. Anh vừa cởi áo ôm chặt vết thương cho bớt chảy
máu vừa kêu to cầu cứu.
Một người đi đường chở anh đến Bệnh viện gần đó trong khi anh cứ ôm
chặt tay trái với cái áo đã đẫm ướt đầy máu, sợ hải đến độ không còn cảm
giác đau đớn nữa. Khi vừa đến nơi gặp Bác sĩ và y tá thì bao nhiêu sức
đề kháng của anh đã hết. Anh xỉu liền ngay sau đó. Tình hình ở bệnh viện
lúc bấy giờ hỗn loạn vô cùng nên sau khi anh được băng bó, bác sĩ và y
tá bỏ đi đâu mất. Nằm nghỉ ngơi tạm ở bệnh viện một chút cho đỡ mệt, chờ
hoài không thấy ai đến săn sóc hoặc cho thuốc men gì cả. Anh cảm thấy
không an tâm bèn quyết định ra đón xe ôm về nhà. Gia đình anh không ai
hay biết gì cả cho đến khi anh ôm vết thương vào nhà…
Số của anh bạn tôi quả đúng là xui thật! Đó là một trong những trái
đạn pháo kích cuối cùng của Cộng Sản Bắc Việt bắn vào thành phố sau khi
lệnh đầu hàng đưa ra và anh đã không may trở thành nạn nhân của nó. Tôi
nghe người nhà anh kể lại mà lòng buồn vô cùng. Anh sắp sửa cưới vợ mà
bị tai nạn này thì tội nghiệp quá! Tôi muốn hỏi thăm, an ủi anh mấy câu
nhưng lúc đó anh đã uống thuốc và đang ngủ, nên tôi chỉ biết đứng bên
giường nhìn gương mặt trắng bệt vì mất nhiều máu của anh mà cảm thấy hai
mắt mình cay xè. Ngồi nói chuyện với gia đình anh một lúc tôi kiếu từ
ra về, hẹn sẽ trở lại thăm anh sau.
Về đến nhà vừa mở Radio lên, lại nghe lải nhải bài hát :”Nối vòng tay
lớn” được phát đi phát lại hoài từ sáng mà thấy lòng buồn như vừa đi dự
đám tang của một người thân về. Tôi tắt Radio và ước gì mình có thể
khóc được thật lớn.
Xin hết Sàigon Xưa Blog
Cảm ơn tác giả Vĩnh Khanh
No comments:
Post a Comment