Wednesday, March 21, 2018

Sau 43 năm, nay nhìn lại …


Anh ạ! tháng tư mềm nắng lụa
Hoa táo hoa lê nở trắng vườn
Quê nhà thăm thẳm sau trùng núi
Em mở lòng xem lại vết thương

Anh ạ! tháng tư sương mỏng lắm
Sao em nhìn mãi chẳng thấy quê
Hay sương thành lệ tra vào mắt
Mờ khuất trong em mọi nẻo về.


Đọc bài thơ này của Nhà thơ Trần Mộng Tú, trong lòng tôi chợt cảm thấy bàng hoàng. Đã bao lần tháng Tư trôi qua, bao nhiêu nước đã qua cầu, nhưng vết thương trong lòng tôi vẫn còn âm ỉ, tôi nghĩ nó sẽ chẳng bao giờ lành cho tới ngày tôi nhắm mắt.
==>
Thời ấy, đám sĩ quan trẻ chúng tôi chỉ mới ngoài 20, đến nay đầu đã chớm bạc, “cùng một lứa, bên trời lận đận”, sau cơn Đại hồng thủy tháng tư năm 1975, lũ chúng tôi tản mác khắp bốn phương trời: “… thằng thì đang còng lưng trong các shop may tại Santa Ana, thằng đang làm bồi bàn ở Paris, thằng đang chăn cừu ở New Zealand, có thằng đang cắt cỏ ở Texas, và cũng có thằng đang đạp xích lô ở Sài Gòn…” (trích). Mỗi năm đến ngày 30-4, tất cả chúng tôi đều bần thần ngơ ngác như kẻ mất hồn. Không còn ai trách cứ chúng tôi hết, chỉ có chúng tôi tự trách mình. Chúng tôi đã làm gì cho Tổ Quốc?

Trước năm 1975, tôi là người lính trong Quân đội Miền Nam, với cấp bậc Sĩ quan thấp nhất là Thiếu úy, với chức vụ nhỏ nhất là Trung đội trưởng. Ngoài số lương đủ sống mà tôi được lãnh hàng tháng, tôi không hề nhận được bất cứ bổng lộc nào từ phía “triều đình”. Tôi chỉ là một người lính vô danh tầm thường như trăm ngàn người lính khác, ngoài cuộc sống cực kỳ gian khổ và hiểm nguy, chúng tôi không có gì hết, kể cả hạnh phúc riêng tư của chính mình. Cho nên tôi không hề có mơ tưởng nào về một hào quang của ngày tháng cũ.
Khi nhìn lại mình, tôi viết như thắp một nén hương tưởng niệm, những đồng đội của tôi đã nằm xuống cho tôi được sống, rộng lớn hơn hàng trăm ngàn người đã chết để chúng ta có cuộc sống ngày hôm nay, tại hải ngoại này.
*
Mùa Hè năm 1972, người Miền Nam thủa ấy gọi là Mùa Hè Đỏ Lửa, mượn cái tên từ tập bút ký chiến trường rất nổi tiếng cùa Nhà văn Phan Nhật Nam. Mùa hè đỏ lửa năm 72, là năm quân đội của hai miền Nam Bắc dốc sức đánh một trận chiến sanh tử, bên nào kiệt lực bên đó sẽ bại vong.
Niên khóa năm 71-72, tôi là sinh viên Đại học Văn Khoa Sai Gòn, năm đó tôi đi học trong một tâm trạng bồn chồn không sao tả được, và tôi cũng không còn tâm trí đâu để mà học hành. Tin tức chiến sự từ các mặt trận dồn dập gửi về, lúc đó bạn bè lính tráng của tôi, lớp chết lớp bị thương, lũ lượt kéo nhau về. Sau này ngẫm nghĩ lại, tôi thấy Miền Nam lúc đó không còn sinh khí nữa.
Chính quyền Miền Nam sau đó ra lịnh Tổng Động Viên, tất cả nam sinh viên đều phải nhập ngũ, trừ một số trường hợp đặc biệt.
Giã từ Văn Khoa với đại giảng đường 2 bát ngát, giã từ những bài giảng rất lôi cuốn của Linh Mục Thanh Lãng, của Giáo sư Nguyễn Thế Anh… giã từ hết những ước vọng của thời mới lớn, tôi trình diện Khóa 4/72 tại Trường Bộ Binh Thủ Đức. Năm đó quân trường Thủ Đức chứa không xuể các thanh niên nhập ngũ, nên đã đưa một số sinh viên ra thụ huấn tại Trường Đồng Đế Nha Trang, toàn bộ tinh hoa của tuổi trẻ miền Nam đã tập trung vào hai quân trường này. Miền Nam đã vét cạn tài nguyên nhân lực để đưa vào cuộc chiến.
Vào quân trường, khóa 4/72 toàn là sinh viên các trường Đại học tụ về, chúng tôi cùng làng xàng tuồi nhau nên đùa vui như Tết. Tuổi trẻ mà, lúc nào cũng vui cũng phơi phới yêu đời, chuyện ngày mai đã có trời tính. Thời gian 6 tháng quân trường gian khổ sao kể xiết, bởi vì huấn luyện nhằm biến đổi một con người dân sự, thành một người lính thật thụ là điều không đơn giản. Không phải chỉ có các kiến thức về quân sự, mà còn tạo dựng nên một cơ thể gan thép, rèn luyện gian khổ bất kể ngày đêm, bất kể nắng nóng nung người hay mưa dầm bão táp.
Trong 5 tuần lễ đầu tiên bước vào trường, gọi là giai đoạn huấn nhục, đây là giai đoạn kinh hãi nhất trong đời lính mới của chúng tôi. Hằng ngày chúng tôi phải tuân phục sự chỉ huy điều động của các Huynh trưởng khóa đàn anh, khi ra lịnh họ hét lên nghe kinh hồn bạt vía, họ nghĩ ra đủ loại hình phạt để phạt chúng tôi bò lê bò càng, trong giai đoạn này chỉ có chạy, không được đi… các Huynh trưởng quần chúng tôi từ sáng sớm đến chiều tối, buông ra là chúng tôi ngất lịm, ngủ vùi không còn biết gì nữa hết. Sau 5 tuần Huấn nhục, ai vượt qua được sẽ tham dự Lễ gắn Alpha, chính thức trở thành Sinh viên Sĩ quan.
Ngày quì xuống Vũ đình trường, để nhận cái lon Alpha vào vai áo, chúng tôi cảm thấy rất tự hào, vì đã lập được một kỳ công, đã tự chiến thắng mình để trở thành một người lính đúng nghĩa, không còn hèn yếu bạc nhược như xưa nữa. Khi chúng tôi quá quen thuộc với các bãi tập như: bãi Cây Đa, đồi 30, bãi Nhà xập, đồi Bác sĩ Tín… cũng là lúc sắp đến ngày ra trường. Gần tới cuối khóa, chúng tôi còn phải vượt qua những bài học cam go như bài Đại đội Vượt sông, Đại đội Tùng thiết, Đại đội Di hành dã trại….
Cuối cùng, điều mà chúng tôi monh đợi từ lâu, đó là ngày Lễ ra Trường. Tất cả trong quân phục đại lễ, xếp hàng ngay ngắn tại Vũ Đình Trường. Rồi một tiếng thét lồng lộng của Sinh viên sĩ quan chỉ huy buổi lễ:” Quì xuống các Sinh viên sĩ quan” Chúng tôi đọc lời tuyên thệ: Danh dự, Tổ quốc, Trách nhiệm. Sau đó được gắn lon Chuẩn úy lên cầu vai. Tiếng thét lồng lộng lại cất lên:
“Đứng lên các Tân Sĩ Quan”. Trong số chúng tôi, có người ứa nước mắt, cái lon mới được gắn lên vai, đã được đánh đổi bởi biết bao mồ hôi gian khổ.
Ngày hôm sau, chúng tôi tụ họp lên Hội trường để chọn đơn vị. Tới phiên tôi được xướng danh lên bảng chọn, có một chuyện làm tôi nhớ mãi. Đứng trước tấm bảng phân chia về các đơn vị, tôi định chọn về Sư đoàn 7 cho gần Sài Gòn, bỗng cái ông Thượng sĩ đứng phụ trách tấm bảng, bèn đưa ra lời bàn:” Chuẩn úy nên chọn về Sư đoàn 9 vì có vùng trách nhiệm nhẹ hơn, Sư đoàn 7 trách nhiệm vùng Cai Lậy- Cái Bè rất nặng nề”. Oái oăm thay, ngày lội hành quân của tôi lại là vùng Cái Bè, vì đơn vị tôi tăng phái cho Sư đoàn 7.
Tôi trình diện Bộ Tư Lịnh Sư đoàn 9 tại Vĩnh Long, được phân bổ về Trung đoàn 14, lúc đó Trung đoàn đang hành quân vùng Cái Bè. Từ Sài Gòn, qua Ngả Ba Trung Lương, chạy thêm một đoạn xa nữa thì tới Cai Lậy, rồi tới Cái Bè, xong quẹo mặt chạy tít mù vào sâu bên trong khoảng 20 cây số, tới cuối đường lộ thì gặp một cái xã mang tên Hậu Mỹ, nơi đây chính là cái ruột của Đồng Tháp Mười, lính tráng hành quân vùng này nghe đến Hậu Mỹ là đủ ớn xương sống. Không hiểu sao nơi giửa Đồng Tháp Mười lại có một nơi dân cư sinh sống bắng nghề nông rất trù phú.
Đám Tân Chuẩn úy chúng tôi, sau khi trình diện, được giử lại Ban Chỉ Huy vài hôm để tìm hiểu về cách làm việc của các phòng ban nơi này. Sau đó Ban Quân số phân chia chúng tôi về các đơn vị. Vị Sĩ quan phụ trách hỏi có Chuẩn úy nào tình nguyện về Đại Đội Trinh Sát hay không? Tôi đáp nhận, nói theo kiểu Cao Xuân Huy trong Tháng Ba Gẫy Súng, tôi chọn về đơn vị tác chiến thứ thiệt này, mà trong lòng không có một chút oán thù nào với phía bên kia, mà chỉ vì cái máu ngông nghênh tuổi trẻ, và kế đó là bị kích thích bởi cảm giác mạnh của chiến trường.
Một Trung đoàn Bộ binh có 3 Tiểu đoàn và một Đại đội Trinh sát, đám chúng tôi có 12 thằng, được phân chia về các Tiểu đoàn, chỉ có mình tôi về Trinh sát. Sau khi chia tay ở sân cờ xong, chúng tôi ra đi biền biệt, hầu như không còn mấy khi gặp nhau nữa. ĐĐTS cho người lên dẫn tôi về trình diện Đại đội trưởng, lúc đó đơn vị đóng ngoài căn cứ của Ban Chỉ huy Trung đoàn. Trung úy ĐĐ Trưởng có biệt danh là Đại bàng, dáng người cao to trông rất dử dằn, cặp mắt ti hí luôn luôn nhìn chằm chằm tóe lửa, giọng nói gầm gừ trong cổ họng, tất cả toát lên một nét uy phong làm khiếp sợ người đối diện ( trong đó có tôi nữa). Tôi đứng nghiêm chào trình diện theo đúng quân kỷ:” Chuẩn Úy NĐC, số quân 72/150181, trình diện Trung Úy”. Ông nhướng mắt lên nhìn tôi, trên gương mặt hình như có nét thất vọng ( mãi sau này tôi biết điều đó đúng như vậy). Nhìn tôi một hồi, rồi phán cho tôi một câu: “Anh về làm Trung đội phó viễn thám!”. Trời đất! tôi thầm nghĩ cái bằng tốt nghiệp của tôi là Trung đội trưởng, mà giao cho tôi làm Trung đội phó là sao nhỉ? Lúc đó, tôi chớ hề biết rằng làm Trung đội phó là còn may mắn, các sĩ quan về sau có khi còn làm Trưởng toán Viễn thám, thiệt là chết dở.
Đại đội TS lúc đó có khoảng trên trăm người lính, được chia làm hai Trung đội Trinh sát và một Trung đội Viễn thám. Các Sĩ quan Trung đội trưởng ra trường trước tôi vài khóa mà trông rất “ngầu”, uống rượu như điên, nói năng bạt mạng. Còn lính tráng nữa chứ, tôi nhìn họ mà sợ lắm, họ được tuyển chọn từ các nơi khác về đây, nên trông rất khiếp hồn. Phần lớn họ thuộc gốc nhà nông, chỉ biết đọc biết viết là nhiều. Lạ một điều, những người lính này đối với tôi rất lễ độ, có lẽ phát xuất từ kỷ luật của quân đội. Sau một thời gian sống gần gủi với họ, tôi thấy họ là những người rất đáng mến, thật thà chất phát, coi trọng nghĩa tình, một khi họ quí trọng một cấp chỉ huy nào thì họ sẵn sàng xả thân, và họ không dể sợ như tôi nghĩ lúc ban đầu.
Vài hôm sau, gặp bữa ĐĐ tề tựu đông đủ, Đại bàng đưa tôi ra giới thiệu trước hàng quân, rồi ông bảo tôi phát biểu. Trời đất ơi! tôi run quá, hai đầu gối cứ run lẩy bẩy, tôi có bao giờ nói chuyện trước một đám đông trông khiếp vía như thế này bao giờ đâu. Cho nên tôi ngượng nghịu lắm, vừa nói vừa ngó xuống đất, không dám ngó mặt ai, bẽn lẽn như cô dâu mới về nhà chồng. Bây giờ nghĩ lại, tôi không còn nhớ tôi nói cái gì nữa, nhưng tôi vẫn nhớ tiếng chắt lưỡi bực mình của Đại bàng đứng sau lưng tôi, nói được chừng 10 phút thì tôi hụt hơi hết sức, Đại bàng phải ra lịnh giải tán đám đông. Ông giận dữ kéo tôi ra chỗ vắng, rồi hất hàm hỏi tôi: “Chuẩn úy tốt nghiệp Trường Sĩ quan nào vậy?” Tôi biết ngay là có chuyện không ổn, mỗi khi xếp gọi mình bằng cấp bậc là tai họa đến nơi rồi. Tôi đứng nghiêm, trả lời: “Dạ tôi tốt nghiệp từ Trường Bộ Binh Thủ Đức”. Ông ta bèn xán cho tôi một câu nhớ đời: “Vậy mà tôi tưởng Chuẩn úy tốt nghiệp từ Trường Nữ Quân Nhân!” Tôi nghe mà choáng váng mặt mày, ông đã điểm trúng tử huyệt của tôi, vì hồi còn là sinh viên sĩ quan trong trường Bộ binh, chúng tôi thường coi là điều sỉ nhục khi bị cấp trên mắng là Nữ quân nhân. Tối hôm đó khi đi ngủ tôi lặng lẽ ứa nước mắt.
Tôi về làm Trung đội phó cho Chuẩn Úy Vương Hoàng Thắng, khóa 3/72, anh ta là người trí thức có bằng Cử nhân Chính trị Kinh doanh. Thấy tôi cà ngơ cà ngáo, anh thương tình kêu đệ tử giúp đỡ cho tôi mọi chuyện. Chiều hôm đó, tôi lại gặp một chuyện khôi hài, dở khóc dở cười, không sao quên được.
Thường thường chiều đến, lính tráng kéo ra bờ sông tắm giặt, tôi cũng đi tắm như họ. Thay vì nhảy ào xuống sông bơi lội như mọi người, tôi lại rất sợ đỉa nên đứng trên bờ cầm nón sắt múc nước sông dội lên người. Tắm một hồi, tôi cảm thấy có cái gì đó là lạ, nhìn quanh thấy mọi người chăm chú nhìn tôi, rồi còn xầm xì bàn tán gì đó. Bỗng nhiên cả đám cười rộ lên, có anh lính lên tiếng: “Sao Chuẩn úy không xuống tắm với tụi tôi mà đứng chi trên bờ, ý trời ơi! sao nước da của Chuẩn úy trắng nõn như da con gái vậy”
Tôi ngượng điếng người, cảm thấy máu chạy rần rần trên mặt, muốn chui xuống đất mà trốn cho đỡ xấu hổ. Vậy mà đã hết đâu, cái ông Thượng sĩ già đứng gần đó còn đớp thêm một câu:” Ý cha! cái bàn chân của Chuẩn úy đẹp như bàn chân của các tiểu thơ, bàn chân này chắc sẽ có số sướng lắm đây!” Thật là khổ cho cái thân học trò, hết là Nữ quân nhân, bây giờ lại giống con gái, thiệt chán.
Miền Tây là vùng đất nổi danh sình lầy, Hậu Mỹ là nơi tiếp đón tôi trong những ngày đầu về đơn vị và cũng là nơi sình lầy ghê khiếp. Dân trong xã người ta cất nhà dọc kinh Tổng đốc Lộc, ra khỏi mí vườn là ruộng lúa xạ ngút ngàn. Sáng sớm, lính tráng lo cơm nước xong xuôi, là bắt đầu nai nịt lên đường, để tham dự cuộc hành quân lục soát hàng ngày. Bước ra khỏi mí vườn là bắt đầu lội ruộng, trước tiên nước đến ngang đầu gối, rồi khi vượt qua những trãng sâu, nước cao tới ngực, và cứ thế chúng tôi ướt sũng từ sáng tới chiều, cho nên quần áo chúng tôi nhuộm phèn vàng chạch, trông rất kỳ quái.
Hậu Mỹ là vùng lúa xạ nên rất ít bờ ruộng, khi đã đặt chân xuống ruộng là phải đi một mạch cho tới bờ bên kia cách xa vài cây số, không ngừng giữa đường được. Đất ruộng người dân cày xới lên, thành từng tảng đất to như trái dừa lớn, ngổn ngang kín mít mặt ruộng và nước thì lấp xấp. Tôi vừa đi vừa lựa thế đặt chân xuống, sình lầy bám chặt nên khi rút bàn chân lên thật khó nhọc. Mặt trời rọi ánh nắng gay gắt khiến mồ hôi tuôn ra đầm đìa, lúc đầu tôi còn lấy tay áo gạt mồ hôi, sau cứ để mặc, mồ hôi nhỏ lăn tăn lên mặt ruộng. Đó là tôi mang ba lô rất nhẹ, chỉ có quần áo đồ đạc cá nhân, còn lương thực lều võng đã có người lính đệ tử mang vác phụ. Tôi ngó qua những người lính đi chung quanh, thấy họ mang vác rất nhọc nhằn, phải oằn lưng mang lều võng, súng đạn, mìn bẫy, gạo, cá khô, đồ hộp, mắm muối, xẽng, dao… người thì đeo trên ba lô cái nồi, người thì mang cái chảo, họ lặng lẽ bước đi, tôi không nghe một lời than van nào, họ cắn răng lại mà cam chịu, bởi vì có than van cũng chẳng ai nghe. Khi đi tới bờ kinh ở tít đằng xa, áo tôi ướt sũng mồ hôi, cho đến nỗi, tôi cởi áo vắt mồ hôi chảy ra ròng ròng. Tôi mệt muốn đứt thở, bèn nằm vật ra đất, tôi mặc kệ hết mọi điều, không còn biết trời trăng gì nữa hết. Lúc đó tôi nghĩ có ai bắn cho tôi một phát súng ân huệ, chắc còn sướng hơn là sống, đời lính sao mà khổ quá!
Theo Đặc san Cư An Tư Nguy, phát hành tại San Diego, thì Trường Bộ Binh Thủ Đức đã đào tạo 55 ngàn Sĩ quan, trong số đó có 15 ngàn Sĩ quan đã tử trận và không dưới 10 ngàn người đã trở thành Phế binh.
Trung đội trưởng là chức vụ đầu tiên của Sĩ quan mới ra trường và là chức vụ duy nhất chỉ huy bằng miệng (các cấp cao hơn thì chỉ huy qua máy truyền tin). Khi xung phong chiếm mục tiêu, Sĩ quan Trung đội trưởng cũng ôm súng chạy ngang hàng với lính. Khi đóng quân phòng thủ đêm, Trung đội trưởng cũng nằm ngang với lính. Trước mặt Trung đội trưởng Trinh sát không có bạn nữa mà chỉ có phía địch quân. Cho nên lính dễ chết thì Trung đội trưởng cũng dễ chết y như nhau, súng đạn thì vô tình nên không phân biệt ai với ai, quan với lính đều bình đẳng trước cái chết. Đó là lý do giải thích tại sao Chuẩn úy mới ra trường chết như rạ là vì thế.
Có một bữa, tôi lội hành quân với đơn vị, đang bì bõm lội sình, thì tiếng súng nở rộ lên phía trước, Trung đội tản ra, tôi cùng Chuẩn úy Thắng và đám đệ tử tấp vào một lùm chuối khá lớn. Tôi đứng đó nhìn trời hiu quạnh, trong khi Chuẩn úy Thắng chuyện trò với Đại bàng qua máy truyền tin. Sau đó im lìm không nghe thấy lịnh lạc gì cả. Bỗng tay lính truyền tin nói với Ch/U Thắng: “Đại bàng kêu Ch/U lên trình diện gấp.” Anh Thắng bỏ đi một hồi, thì lính truyền tin lại bảo tôi: “Đại bàng muốn gặp Ch/U Châu”
Tôi mới vừa cầm ống nghe áp vào tay, thì nghe chửi xối xả, giọng ông lồng lộng một cách giận dữ, té ra là do Ch/U Thắng quá sợ nên không dám xua quân tấn công. Đại bàng gầm lên bảo tôi: “Nè! Ch/U Châu, tôi giao Trung đội lại cho ông, ông có dám dẫn quân lên đánh mục tiêu trước mặt hay không? Tôi nghe lịnh mà sợ muốn “té đái trong quần”, run lập cà lập cập rồi trả lời tuân lịnh. Tôi tháo ba lô quăng lên bờ ruộng cho nhẹ người, rồi cầm khẩu súng tiểu liên M16, miệng chỉ kịp kêu lớn: “Tất cả theo tôi”. Lúc đó tôi “quíu” quá, nên không còn nhớ đến bài bản chiến thuật nào từng học ở quân trườn.
Tôi xông lên, vừa chạy vừa bắn vừa la (không biết la cái gì nữa!) Cả trung đội hoảng hốt sợ tôi bị bắn chết, nên cũng vùng dậy chạy theo. Phía bên kia, thấy tôi chạy dẫn đầu rất hung hãn, chắc tưởng sau tôi là đại quân ghê gớm, bèn lập tức tháo lui. Trong lúc vội vàng họ còn bỏ lại mấy cây súng AK nữa chứ. Tôi thanh toán mục tiêu chỉ đâu chừng 10 phút. Ai cũng tưởng tôi gan dạ chứ đâu có biết rằng tôi làm được như thế vì quá “rét” ông xếp dữ dằn.
Sau đó Đại bàng kéo quân lên, ông nhìn tôi gườm gườm, có lẽ ông chưa thấy một Sĩ quan nào lại lập chiến công “khùng điên ba trợn” như tôi. Hết cơn giận, ông trả quyền chỉ huy trung đội lại cho Ch/U Thắng, tôi trở về vị trí cũ.
Sau “chiến công đầu tiên”, tôi được điều qua các Trung đội khác, xử lý công việc tạm thời cho các Trung đội trưởng đi phép hay bị thương. Một điều may mắn, (hay Trời đãi kẻ khù khờ!) khi nắm quyền tạm thời đó, với những trận đánh mà tôi tham dự, tôi đều hoàn thành nhiệm vụ một cách tốt đẹp. Đại bàng đã nhìn tôi bằng cặp mắt đỡ aí ngại hơn ngày đầu mới gặp tôi.
Ông Đại bàng này sau đó thuyên chuyển qua đơn vị khác. Đại bàng mới đến thay thế cũng mang cấp bậc Trung Úy, nhưng dáng dấp thư sinh, ăn nói hiền lành hơn ông trước. Trong bữa nhậu bàn giao chức vụ, ông cũ giới thiệu các sĩ quan trong đơn vị cho ông mới. Sau khi điểm mặt 3 Trung đội trưởng, cuối cùng ông ta chỉ tôi là một Trung đội phó, rồi đưa ra nhận xét làm sửng sốt mọi người: “… đây là một sĩ quan xuất sắc, một tay chơi tới bến của đơn vị…” Hai người sửng sốt nhất hôm đó là tôi và ông Đại bàng mới. Đối với tôi, tôi chỉ cố gắng làm tròn nhiệm vụ của mình. Với Đại bàng mới, ông ta lấy làm lạ vì ông cứ ngỡ sĩ quan xuất sắc nhất phải là mấy ông Trung đội trưởng kia, sao lại là cái tay Trung đội phó trông hết sức ngớ ngẩn này. Có lẽ vì cái nhận xét này, chỉ một thời gian ngắn sau đó, tôi được Đại bàng mới cất nhắc lên làm Trung đội trưởng thật thụ.
Tham dự hết trận đánh này đến trận đánh khác, để sống còn, không còn con đường nào khác, tôi phải tận lực lo công việc của mình. Càng ngày tôi càng đạt được sự tin cậy cao nơi cấp chỉ huy, chính điều đó đã đẩy trung đội tôi vào chốn hung hiểm. Khi Đại đội tiến quân vào nơi tử địa, trung đội tôi được lịnh đi đầu, khi rút quân từ nơi đó ra, chúng tôi bao chót. Khi tấn công vào mục tiêu, chúng tôi được giao nơi khó gặm nhất, và khi phòng thủ thì chúng tôi nằm nơi dễ chết nhất.
Xin hết.
Blog Saigon Xưa 















 

No comments:

Post a Comment