Monday, August 31, 2020

Chợ tóc - Vũ Thị Huyền Trang

Chợ tóc chỉ họp duy nhất một ngày trong năm ở cạnh bến đò. Những người mua tóc từ khắp nơi đổ về vào ngày hai ba tháng chạp. Những người đàn bà ra sông không chỉ để thả cá chép mà còn để giấu chồng tỉa bớt đi mái tóc. Có người năm nào cũng đến chợ cắt pheng mái tóc dài đến ngang lưng rồi cầm vài trăm đi sắm Tết. Gió sông thổi bay tung tóe mái tóc mới ngắn ngủn đến mang tai. Vài người thì đứng tần ngần vuốt ve tóc của mình bịn rịn không muốn cắt đi. Chợ tóc là phiên chợ của đàn bà, của những chiu chắt và hy sinh. Của đau đáu và hoài niệm. Của dịu dàng và nổi loạn.

Thuần dúi vào tay người đàn bà bán tóc hai trăm ngàn, không cò kè thêm bớt. Những người đàn bà đến đây đa phần vì túng bấn. Họ bán đi mái tóc mình để thêm thắt vào cái Tết nghèo nàn bộ quần áo mới cho con hoặc cũng có khi “vì chồng đòi mua vài thang thuốc về ngâm rượu”. Lẫn đâu đó trong những lọn tóc Thuần mua là vài sợi trắng vì nhọc nhằn nắng mưa. Là những nghĩ suy vừa mới mọc lên từ chân tóc. Mỗi một lọn tóc mang một khuôn mặt người, một số phận. Thuần mua chúng về bán cho người khác. Như một cuộc trà trộn thân phận bằng sợi tóc.

Thuần ngồi ở rìa sông, ngửi thấy mùi của những vạt cúc vàng nở phía bên kia bờ. Người ta đang hối hả thu hoạch hoa bán Tết. Những chiếc xe máy chở hoa mất hút trên con đê nhỏ. Họ mang theo mùa xuân bày bán khắp các nẻo đường. Những người đàn bà cười tươi rói khi cầm tiền thu hoạch hoa cũng đã từng nhăn nhó khi quẩy những gánh nước đầy tràn từ dưới sông lên. Tưới cho những luống hoa, tưới luôn cho cuộc đời vốn cằn cỗi của mình. Có năm mưa lớn nước sông dâng, những luống hoa chưa kịp nở bừng khoe sắc đã chết sặc. Nước rút, cả hoa và lòng người đều nhũn như bùn sông vậy. Những người đàn bà đầu tóc rũ rượi đứng thẫn thờ nhìn hoa, hoang mang trước một cái Tết đang kề cận. Biết lấy gì để trang trải trước bao khoản cần chi. Họ búi vội mớ tóc xác xơ của mình để lo toan cho những ngày dài phía trước. Trong số họ có người sẽ đến gặp Thuần tiếc rẻ cắt đi mái tóc. Mỗi một nhát kéo Thuần đưa tay là bờ vai gầy guộc ấy như rung lên xa xót.

- Chị tỉa khéo vào, không chồng em mắng chết.

- Tóc dầy quá thì cắt bớt cho đỡ nặng đầu, sao mà mắng?

- Tại chồng em không quý gì như quý tóc của vợ. Tối ngủ phải vùi đầu vào tóc vợ mới ngủ ngon.

- Vậy sao lại bán bớt tóc?

- Em muốn mua một đôi áo ngực mới. Sáng nay ra chợ thấy bày bán đẹp quá. Hàng từ thành phố lên có khác. Cũng chẳng phải nhà không có nổi vài trăm để mua. Tại tự nhiên bỏ tiền ra thì tiếc…

Thuần cười. Trong bất cứ hình ảnh nào những người đàn bà ở quê đều buồn, ngay cả khi rất đẹp. Họ chiu chắt đời mình cho chồng con. Vắt kiệt tháng năm bằng sức lực và tâm trí. Với họ ngay từ khi bước vào cuộc sống hôn nhân là tuổi thanh xuân đã ở lại phía sau. Không có những buổi tiệc tùng, gặp gỡ bạn bè như đàn bà thành phố. Họ rúc trong xó bếp, góc nhà, trên rừng, dưới ruộng lưng đẫm mồ hôi, tay bám đầy bùn đất. Đêm ngủ móng chân họ còn chưa kì sạch, quần áo đầy mùi trớ sữa của con. Người chồng cục mịch đến cả sự âu yếm vuốt ve cũng vụng về, hà tiện.

Thuần từng rong ruổi nhiều nơi mua tóc. Những thành phố Thuần qua, đàn ông hay đàn bà đều không thích kiểu sống mờ nhạt và cam chịu. Họ đi làm, bỏ những đứa con ở nhà cho người già hoặc giúp việc trông nom. Đàn bà bước ra khỏi nhà bằng dáng vẻ chỉn chu đến từng cái lông mi, họ không thích những vết nhăn trên quần áo. Tóc họ không buộc túm hay búi lên đơn giản mà cầu kì chải chuốt. Họ cười bằng phấn son đắt tiền. Họ đi đến đâu mùi nước hoa tỏa ra theo từng bước. Họ không tiếc tiền mua những bộ đồ đắt đỏ. Tủ đồ của họ chất đống mà vẫn luôn thấy thiếu. Đàn bà ở quê thường đứng tần ngần trước quầy bán quần áo. Cầm lên đặt xuống một bộ đồ ưng ý, cò kè bớt xén từng đồng rồi kiếm cớ không mua. Chỉ có mấy bộ đồ mặc quanh quẩn từ năm này qua năm khác đến bạc mầu nhàu nhĩ. Thỉnh thoảng trong giấc mơ họ thấy mình được đi đến những vùng đất lạ xa. Như một cuộc đào tẩu trong ý nghĩ…

Thuần có sở thích kỳ lắm. Trong phòng Thuần giấu một hòm gỗ nho nhỏ. Trong đó để những lọn tóc đặc biệt Thuần mua về mà không nỡ bán đi. Đó là tóc của những người đàn bà đặc biệt. Họ thường sống dưới phố. Trước khi sống dưới phố họ cũng từng là con gái đồng quê. Họ xuống phố học hành, lập nghiệp rồi mong tìm thấy một tấm chồng để đổi đời. Họ quyết định cắt đi mái tóc đen tuyền dài chấm eo như cắt đứt một cuộc đời nhu mì hiền dịu. Với mái tóc ngắn ngang vai hay uốn xoăn bồng bềnh cá tính họ bắt đầu một cuộc đời mới. Thuần thấy thèm một lần được dứt khoát vứt bỏ như họ để được sống khác đi. Nhưng Thuần không thể bỏ mẹ chồng để dắt theo con thơ cùng Lâm đến một vùng đất hứa. Thuần bị ràng buộc vì tình thương và vì cả thứ lễ nghĩa đã ăn sâu vào tâm thức những người đàn bà. Chồng chết là phải ở vậy thờ chồng nuôi con và chăm sóc bố mẹ chồng. Thứ định kiến ấy nuốt đời Thuần gọn lỏn. Giờ thì tóc Thuần đã lẫn vài sợi trắng. Lâm không còn nhắc đến chuyện bỏ đi. Mẹ chồng nói “Muốn sống đến trăm tuổi để được gần cháu con”. Thuần nhẩm tính “chắc khi đó mình cũng thành một bà già”.

Hôm nọ gặp Lâm xuống huyện may áo mới cho mẹ già. Tóc Lâm dài đến vai, râu ria xồm xoàm. Thỉnh thoảng Lâm ngước mắt lên nhìn Thuần, ánh nhìn hoang dại như loài thú. Trong túi đồ Lâm xách trên tay, Thuần thấy có bánh chưng, cân giò, ít mứt gừng, mứt bí, túi dưa hành. Nhà có bàn tay đàn bà sẽ không phải mua những thứ đó ở chợ. Nhìn ánh mắt ái ngại của Thuần, Lâm cười:

- Giá mà chợ bán thịt kho tàu, bán canh khổ qua nhồi thịt, bán măng hầm xương thì có khi tôi cũng mua cho tiện.

- Cái gì cũng mua sẵn ở chợ thì còn gì là không khí tết.

- Có bày biện ra đó mà lòng không vui thì cũng đâu thành tết phải không Thuần?

- Ờ thì… cố mà vui.

- Thuần cố được chứ tôi thì không. Cố làm, cố ăn, cố ngủ chứ ai mà cố vui cho nổi.

- Anh về cắt tóc cạo râu đi. Để rậm như người rừng vậy.

- Tôi đâu có nuôi chơi. Nuôi dài là để bán cho Thuần đó.

Người nói rồi người đi. Bỏ mặc Thuần đứng chơ vơ giữa chợ. Suốt bao nhiêu năm nay từng lời Lâm nói như bỏ vài hạt muối, mằn mặn đầu môi, xa xót trong lòng. Thuần cũng chỉ là người đàn bà bé nhỏ thèm được quyền yếu đuối. Nhiều đêm nằm đơn độc, Thuần thấy ruột gan mình như biến thành than lửa. Rạo rực, khát khao, căng cựa. Để rồi tự ghìm cơ thể mình dính chặt lấy chiếc giường cưới đã bắt đầu mối mọt. Không có sự nổi loạn nào, Thuần chỉ biết nằm chờ những rạo rực trong mình nguội lại. Đã bao đêm Thuần phải tự dìm mình vào ý nghĩ lạnh như nước đá. Chồng mất khi Thuần mới hai sáu tuổi, gái một con trông mòn con mắt. Đêm đợi chồng đi uống rượu về, Thuần còn e ấp đặt vài bông hoa bưởi trên bầu ngực phập phồng. Mắt còn muốn nhìn chồng đong đưa. Môi còn muốn cong lên nũng nịu. Nhưng chồng không về nữa. Bởi không phải cơn say nào cũng tìm thấy đường về. Chồng đã gõ nhầm cửa nhà người yêu cũ. Đêm ấy chồng mất vì cảm lạnh. Lúc đến nhận xác chồng về, Thuần cay đắng nghĩ ngay cả phút giây cuối cùng chồng cũng chọn được nằm trong vòng tay người đàn bà khác chứ không phải là mình. Cơn say đã lôi tuột chồng đến một thế giới xa xôi, ném tuổi xuân của Thuần vào quên lãng. Ba năm để tang chồng đi đâu mặt cũng cúi gằm nhìn xuống. Không cả dám cười với một người đàn ông lạ mặt vì sợ thiên hạ cười chê. Vành khăn tang của chồng lúc nào cũng treo lơ lửng trên đầu hết ba năm này đến ba năm khác.

Nhiều lần nghĩ về cái đêm chồng biến mất, Thuần tự hỏi mình ở lại đây để làm gì? Tại sao phải buộc mình vào thứ ký ức đau đớn đến tàn nhẫn ấy? Thuần còn phải sống và yêu. Phải đến bên người dành tình yêu trọn vẹn cho Thuần. Nhưng mẹ chồng chỉ có một mình đau yếu, nỡ nào dứt áo bỏ đi. Nếu chỉ có mình, Thuần còn nhắm mắt đưa chân. Nhưng con Thuần đã lớn, nó hiểu hết mọi chuyện xung quanh. Đã có lúc Thuần nghĩ “Tại sao lúc con còn chập chững mình đã không bế nó bỏ đi?”. Lâm đã đợi Thuần từ khi còn là người đàn ông sức vóc. Trinh nữ trong làng khối kẻ thầm thương trộm nhớ, ra ngẩn vào ngơ. Nhưng trong mắt Lâm chỉ có Thuần - người đàn bà góa chồng là đẹp. Vẻ đẹp mong manh, u sầu khiến Lâm muốn bao bọc, nâng niu. Gần hai chục năm qua chàng trai ấy chớm già, người thiếu phụ cũng không còn trẻ…

*

Chợ tóc họp đến tối muộn mới tan. Những người mua tóc ngồi co cụm lại gần nhau để bớt tái tê trước từng đợt gió sông lùa vào lạnh buốt. Thong thả đếm từng nắm tóc được buộc gọn bằng dây nịt nhiều mầu. Những nắm tóc mềm mượt còn chưa từng một lần nhúng vào hóa chất. Nguyên sơ như thể tâm hồn người phụ nữ thôn quê mộc mạc. Tóc họ bao giờ mang đi bán, bọn Thuần cũng được giá cao hơn thứ tóc xơ xác của đàn bà thành phố. Mà thực ra đã lâu lắm rồi Thuần không xuống phố mua tóc nữa. Giống như mọi sự sống khác, tóc ở phố cũng ngột ngạt và bị bức tử sớm thôi. Những mái tóc ngắn cũn hết ép phẳng lại uốn xoăn, hết nhuộm vàng lại mầu hạt dẻ, hết phồng lên lại cụp xuống. Trên người phụ nữ tóc trở thành thứ nhàu nhĩ hay bị vần vò nhất. Đàn bà ở quê nâng niu tóc như nâng niu một thứ trang sức quý giá. Họ chăm chút cho mái tóc bằng hoa bưởi, hương bồ kết. Họ nhẹ nhàng chải tóc. Mềm mại ve vuốt tóc bằng đôi bàn tay chai sạn của mình. Tết đến họ hay đứng tần ngần trước quầy bán dây buộc tóc. Thích thú cầm từng chiếc cặp tóc đính đá lấp lánh ướm thử lên tóc mình. Định không mua nhưng nghĩ “chắc là chồng sẽ thích” nên quyết định rước về. Nâng niu chiếc cặp tóc nhỏ như thể báu vật. Nhưng chồng họ đâu phải ai cũng thích nhìn tóc vợ. Họ chỉ nhìn vào chiếc làn nhựa xem vợ đi chợ có mua đồ nhắm? Tiền mua cặp tóc họ cũng muốn quy ra thành rượu. Nhiều người đàn bà quyết định cắt đi mái tóc có khi chỉ vì muốn chồng chú ý đến mình dù chỉ một lần, thay rượu.

Tết đến đàn ông thảnh thơi ngồi nhậu với nhau. Đàn bà tóc búi cao cắm mặt trong bếp hết nấu nướng phục vụ chồng con lại dọn dẹp đến mỏi nhừ lưng. Lúc chồng còn sống, Thuần cũng hay búi tóc gọn gàng. Để những sợi tóc không rơi vào thức ăn hay vướng víu vào chăn chiếu. Chồng Thuần ghét cay ghét đắng sợi tóc nào lẫn trong đĩa rau xanh, trong nồi cá kho, trong đĩa nộm mang ra nhắm rượu. Có lần chồng dằn mạnh bát cơm xuống mâm, đứng dậy vắt áo lên vai bỏ đi tới sáng. Chỉ vì nhai phải một sợi tóc lẫn đâu đó trong miếng bánh chưng vẫn còn nóng hổi. Suốt mấy ngày Tết chồng dè chừng từng miếng ăn trên mâm. Dè chừng mớ tóc dài đến kheo của Thuần. Chồng lẩm bẩm nhiều lần “Cắt quách đi cho đỡ thậm thượi. Nhìn người chẳng thấy gì chỉ thấy tóc. Khắp nhà chỗ nào cũng đầy tóc rụng”. Ý nghĩ về những sợi tóc vì thế cứ bám riết lấy Thuần. Nhiều khi Thuần nghĩ cứ để tóc dài, tóc rụng vậy đi. Chồng còn càu nhàu nghĩa là còn để tâm tới vợ. Sau này chồng mất, Thuần đi mua tóc khắp nơi. Từng có lần xót ra khi ngồi gỡ từng nắm tóc còn bết đầy máu của người đàn bà xa lạ. Chị bị chồng đánh lúc đang ngồi cho con bú. Chị chạy không kịp vì bị chồng túm tóc giật ngược quay trở lại. Chị chỉ còn biết khom người che chở cho đứa con bé bỏng. Tóc im lìm chịu trận, đau đớn xác xơ. Lúc chị ngồi bên hiên nhà gỡ tóc thì Thuần đi ngang qua. Tiếng rao “ai tóc dài bán đi” như thức tỉnh chị khỏi cơn mụ mị. Gỡ xong tóc, Thuần định đưa kéo cắt. Nhưng chị nói “Chờ chị. Hãy để chị gội đầu. Để chị được vuốt ve mái tóc này lần cuối. Để ngay cả khi đứt lìa tóc vẫn được thơm hương bồ kết”. Chị xin lại một nhúm tóc nhỏ đặt trong gối làm kỷ niệm. Thuần mang tóc chị đi, thấy vai mình nặng trĩu…

Có biết bao người đàn bà để cho Thuần cắt đi mái tóc như một cách giải thoát những cùng cực tủi hờn. Lạ lắm, những mái tóc từng bị bàn tay người đàn ông vần vò, hạnh hạ nhưng vẫn đen láy và mềm mượt như đã được nâng niu từ kiếp trước. Cũng có người đến chìa tóc trước mặt Thuần hỏi thấy tóc họ có đẹp không? Thơm không? “Tóc trên đầu mình nhưng lại là tài sản của chồng. Khoe chơi thôi chứ đâu có bán”. Họ khiến Thuần nhớ đến Lâm trong một buổi chiều nào đó. Anh níu vai Thuần, đan tay lẫn trong lọn tóc. Anh nói một ngày nào đó gần thôi sẽ được gội đầu cho Thuần bằng hoa bưởi khô hái ở vườn nhà. Sẽ thức dậy cùng nhau vui đùa với tóc. Sẽ chải tóc cho Thuần mỗi sáng. Nếu có say cũng xin được vùi trong tóc Thuần mà ngủ. Đêm ấy nằm một mình Thuần khóc. Nước mắt lẫn vào trong tóc.

Chợ tóc không còn ai ngoài Thuần. Dưới sông hình như những con cá chép không kịp đưa ông Táo về trời đang quẫy đạp. Nhà ai đang đảo mứt gừng mùi vừa thơm vừa ấm. Thấp thoáng đâu đó có những người đàn bà đang thu chăn chiếu ngoài hàng rào vào. Tiếng rìu bổ củi vang lên đều đặn. Ai đó hỏi nhau lá dong mua ở đâu mà đẹp thế? Năm nay ăn đụng lợn nhà ai? Mấy hôm nữa có đi sắm đào, sắm quất? Thằng cả năm nay liệu có được nghỉ phép về ăn Tết không bà? Mọi nhà đều tất bật chuẩn bị cho một cái Tết đang đến cận kề. Thuần khẽ co người cho đỡ lạnh. Thuần còn ngồi đây chưa muốn về vì biết còn có người đang tự vuốt tóc mình mà đắn đo, tiếc nuối. Có thể họ sẽ chạy vội ra chợ tóc lúc trời nhá nhem tối để nghe tiếng gió lùa theo từng nhát kéo đưa nhanh. Cũng có thể họ sẽ đóng cửa, cài then để ý nghĩ cắt đi từng lọn tóc sẽ ngừng thôi thúc. Thuần bắt đầu cảm thấy đói cồn cào khi mùi xào nấu theo gió bay qua. Giờ này ở nhà chắc con gái cũng đang cặm cụi với từng cốc phẩm mầu tự chế để biến những mẻ mứt bí, mứt dừa nhiều mầu sắc. Mẹ già chắc đang ngồi chẻ lạt giang để gói bánh chưng. Cơm tối chắc đã nấu xong xuôi chỉ còn chờ Thuần về là ngồi quây quần lại bên nhau vừa ăn vừa trò chuyện. Bất giác Thuần đưa tay vén nắm tóc của mình ra trước ngực. Tóc Thuần dài và đen nhất làng từng khiến Lâm mê mẩn. Thuần đưa kéo lên ướm thử vào tóc rồi cắt một nhát rất ngọt. Như thể kéo đã được mài sắc chỉ đợi có giây phút này thôi. Thuần đứng dậy chọn con đường có về qua nhà Lâm. Đúng lúc thấy Lâm dắt mẹ già đi đo áo mới. Hình như Lâm có hơi hụt hẫng khi nhìn theo mái tóc ngắn của Thuần đang bị gió thổi tung. Thuần cứ thản nhiên đạp xe đi dù trong lòng rối bời như tóc gió. Cắt tóc rồi là Thuần cũng buông tha cho cuộc tình này. Để Lâm còn lấy vợ. Thuần về vui với hạnh phúc bình dị của mình. Gió sông thổi phần phật bên tai. Những bông hoa còn sót lại bên kia sông đang ngả nghiêng trước gió. Cơm canh nóng hổi đang chờ Thuần ở nhà. Giờ này chắc mẹ già đang ra ngõ ngóng…

Nguồn Văn nghệ số 07/2020

Sunday, January 27, 2019

CHỊ MÈ - Nguyễn Đại Thuật

Đầu năm tôi vào học lớp nhất trường tiểu học, gia-đình tôi có thêm một người giúp việc. Lúc bấy giờ gia đình tôi đã có một chị giúp việc lớn tuổi chuyên lo về công việc đi chợ, nấu ăn, giặt giũ quần áo, lo giữ nhà cửa sạch-sẽ.
Cha mẹ tôi có tất cả năm người con, và trong tương lai gần mẹ tôi sẽ có thêm một đứa con nữa. Có lẽ vì vậy mẹ tôi đã thuê thêm chị Mè. Cha mẹ tôi có một cơ-sở làm ăn tương đối lớn, bận rộn công chuyện suốt ngày, mấy anh chị em chúng tôi thiếu người săn sóc, nên chị Mè được giao cho công việc nầy.
Chị Mè còn trẻ lắm, chị khá đp, tóc ngắn ngang vai, kiểu tóc mà thời bấy giờ người ta gọi là tóc thề. Chị gốc người làng Trà-Kiệu, thuộc tỉnh Quảng-nam, cả làng theo đạo Thiên-chúa, nơi người ta nói đã có lần Đức Mẹ hiện ra.
Hàng ngày chị Mè tắm rửa, thay quần áo, lo cho ăn uống và đưa đón anh chị em tôi đi học.
Chị Mè không biết chữ, nhưng chị thuộc kinh Chúa, đêm nào chị cũng đọc kinh trước khi ngũ. Cha mẹ tôi gốc đạo Phật, nhưng tôi chưa có dịp đi chùa lần nào, cũng chưa biết ông Phật là ai, nhưng qua chị Mè, tuổi thơ tôi thấm nhuần rất nhiều về đạo lý của Thiên-chúa do chị kể. Chị đã dạy cho tôi thuộc kinh Kính Mừng, Kinh Lạy cha và tôi đã được nghe chuyện rước mình Thánh chúa, nếu ai nhận mình Thánh chúa không để 
t tan trong miệng, nuốt liền vô bụng thì mình Thánh chúa sẽ biến thành lửa đốt cháy ruột để trừng phạt. Chị khuyên tôi làm điều tốt, không nên làm điều ác, làm điều tốt sẽ được lên Thiên-đàng gặp Đức-chúa Trời, làm điều ác sẽ bị đọa vào Hỏa-ngục, bị quỷ ăn thịt, bị đốt thành lửa.
Mỗi sáng Chúa-nhật, chị được cha mẹ tôi cho phép đi dự thánh lễ ở nhà thờ Con gà. Khi trở về nhà, chị thường kể lại cho tôi nghe những gì chị được nghe cha xứ đã giảng. Có một buổi sáng Chúa nhật chị chuẩn bị đi lễ nhà thờ, lúc bước xuống cầu thang thì guốc chị bị đứt quai, chị không có guốc khác thay thế, chị không đi dự lễ nhà thờ được, chị ngồi khóc bên chân cầu thang.Tôi phải xin phép mẹ tôi cho chị mượn guốc thay thế. Chị mừng quá, ôm tôi hôn rất nhiều lần vào má và không quên lắp bắp lời cám ơn. Có lẽ nhìn cảnh chị mừng rỡ khi có guốc tạm thay thế vào buổi sáng hôm đó nên vào lúc chị từ nhà thờ về nhà, cha tôi bảo mẹ tôi cho tiền chị mua đôi guốc mới. Tôi nghe cha tôi nói với mẹ:
- Mình cho con Mè tiền mua đôi guốc mới, guốc nó mòn và đứt quai không đi được".
Tôi nghe tiếng mẹ tôi:
- Cứ sáu tháng tôi trả tiền công cho nó một lần, tôi mới trả cho nó chưa tới năm ngày, nói nó lấy tiền đó mua". 
Cha tôi cười, nói:
- Bà nầy hay thật, tiền đó nó nhờ tôi gởi hết về cho cha mẹ nó rồi, bà biết mà".
Tôi không nghe mẹ tôi nói gì thêm. Chiều hôm đó, mẹ tôi dẫn chị ra chợ mua guốc. Đôi guốc sơn màu đen rất đẹp. Khi chị đem đôi guốc bằng gỗ vông của chị vứt đi, tôi nhìn thấy đôi guốc của chị mòn đến nổi không có đủ bề dày để giữ chiếc đinh khi đóng quai.
Chị Mè không biết chữ, thời đó chính quyền của ông Ngô-đình-Diệm khuyến khích dân chúng đi học trong kế khoạch xóa nạn mù chữ, vì vậy có những lớp học Bình-dân giáo-dục mở ban đêm cho dân chúng không biết chữ, bận công việc ban ngày, đêm có thời giờ đi học. Cha mẹ tôi cho chị đi học lớp Bình-dân giáo-dục trong đình của khu phố. Lúc đầu chị không chịu đi, tôi hỏi, chị nói: "chị lớn cái đầu rồi mà còn đi học, mắc cỡ chết đi dược".
Rồi trước tết năm đó mấy ngày, cha mẹ tôi cho chị về quê thăm gia-đình và phải trở ra làm việc những ngày tết. Sau tết, chị xin được đi hoc lại lớp bình dân giáo dục. Cha mẹ tôi cũng không hỏi lý do tại sao trước đây chị từ chối nay lại đòi đi. Nhưng sau tối đầu tiên đi học trở về nhà, tôi cắc cớ hỏi chị: "Hôm nay chị Mè vào lớp có mắc cỡ không?" 
Chị đập khẽ vào đầu tôi nói: "Có mà ít ít thôi, không bằng hôm trước Tết chị về quê, khi vào làng, bị mấy thanh thiếu niên giăng giây chận đường xem giấy tờ, bắt đọc chữ trước khi cho vào làng. Chị đâu có đọc được, mấy đứa đó đưa chị vào trụ sở hội-đồng xã, họ bắt chị làm ký giấy cam kết phải đi học cho biết đọc biết viết. Nếu kỳ sau chị về làng mà bị kiểm soát, không đọc được chữ thì họ không cho vào làng. Hôm đó chị mắc cỡ muốn chun đầu xuống đất luôn. Gặp toàn mấy thanh niên thiếu nữ và người quen trong làng, họ khuyên chị nên theo lớp Bình-dân học vụ. Kỳ sau về làng, bị kiểm soát, không đọc chữ được chắc là họ không cho vô làng quá, xấu hổ lắm ! ". 
Bên cạnh nhà tôi có một hẽm nhỏ, đầu hẻm có một tiệm hớt tóc. Người hớt tóc thuê mái hiên của một căn nhà để mở tiệm. Mấy anh em trai tôi là thân chủ của anh chủ tiệm hớt tóc nầy. Mỗi một tháng rưỡi, anh em tôi được chị Mè dẫn ra đây giao cho anh chủ tiệm, rồi trở lại trả tiền để đón về. Chủ tiệm là anh Cường, người ta gọi anh Cường chay, bởi vì anh ăn chay, không ăn thịt cá. Theo lời của một bà bán rong bún ốc kể cho mẹ tôi nghe nhân một buổi sáng cả nhà tôi ăn bún của bà. Anh Cường chay ngoài việc hớt tóc anh còn biết nghề xem chỉ tay, được nhiều người tin cậy, trong đó có bà. Anh xem chỉ tay chứ không nhận tiền của một ai. Anh là người cùng làng với bà ở An-cựu thành phố Huế.
Anh Cường chay có một người cậu đi tu ở chùa Từ Hiếu. Anh học hết năm đệ lục trường Quốc-học thì bỏ học vì nhà quá nghèo. Anh là con trai một nên không bị đi lính. Anh học nghề hớt tóc của người cậu và được người dì em của mẹ đem vào Đà nẵng hành nghề, vì ở An-cựu có nhiều người làm nghề hớt tóc nên khó kiếm sống. Do tiết lộ của bà bán bún, thỉnh thoảng mẹ tôi mời anh Cường qua nhà nhờ xem chỉ tay. Mẹ tôi thường khen anh Cường chay với cha tôi:
- Thằng Cường chay xem chỉ tay hay thật, nó nói tôi trúng như gần hết".
Tôi không nghe mẹ tôi nói anh Cường chay đã nói đúng những gì, nhưng mỗi lần nghe mẹ tôi nói như vậy cha tôi “hừ” lên một tiếng:
- Bà toàn tin những điều nhảm nhí".
Mẹ tôi còn nhanh nhẩu mời mấy bà bạn đến nhà để nhờ anh Cường chay xem chỉ tay nữa. Những lúc như vậy, cha tôi không vui, mặt ông nhăn nhó, bỏ đi khỏi cửa hàng đang buôn bán. Tuy nhiên, những lúc cha tôi đi Sài-gòn mua hàng trở về đều có quà cho anh Cường chay, có lẽ để trả ơn những lúc anh đã xem chỉ tay cho mẹ tôi.
Khi tôi bắt đầu vào năm học lớp đệ thất, chị Mè cũng đã biết đọc. Không biết ai cho chị quyển Thánh kinh, chị nâng niu, giữ gìn rất kỹ. Chị để quyển Thánh kinh trên đầu tủ, buổi tối, trước khi đi ngủ, chị rửa tay rồi mới lấy xuống đọc. Có lúc tò mò muốn biết trong Thánh kinh viết những gì, tôi hỏi mượn để xem, chị đồng ý cho mượn nhưng bất tôi phải rửa tay và nhiều lần nhắc tôi không được để sách trên ghế ngồi, như vậy sẽ bị Chúa phạt.
Rồi có một thời gian, tự nhiên tôi nghe mẹ tôi hay la rầy chị Mè; mỗi lần bị la như vậy tôi thấy chị Mè đúng trong góc nhà bếp khóc, hai mắt đỏ hoe. 
Mẹ tôi la chị:
- Sao lúc nầy mi cứ dở dở ương ương, y như người trên mặt trăng, làm trước quên sau, làm gì hư nấy, lúc nào cũng thẩn thờ như bị ai hớp hồn. Chỉ việc pha sữa tới giờ cho em bú mà cũng quên để cho thằng nhỏ khóc ầm cả lên." 
Tôi chưa bao giờ nghe chị trả lời mẹ tôi khi bị la mắng như vậy. Chỉ im lặng và khóc. Khác với những kỳ đi hớt tóc trước, kỳ nầy chị Mè tự nhiên nhắc tôi đi hớt tóc từ ba ngày trước. Đến hôm chị dẫn tôi vừa ra đến cửa thì cha tôi bảo: 
"Nó lớn rồi tự đi hớt tóc một mình, khỏi cần đưa đi."
Chị Mè quay lui vào nhà, mặt chị xịu xuống và buồn. Khi tôi bước vào tiệm hớt tóc, anh Cường chay thay vì chào tôi như trước đây, anh bước ra khỏi tiệm nhìn trước nhìn sau con hẽm rồi đi trở vào hỏi tôi:
- Sao nay chị Mè không đưa em đi?" 
Tôi trả lời: 
 - Cha em nói em lớn rồi không cần chị Mè đưa đi.. 
Tôi nghe anh Cường thở dài. Suốt buổi hớt tóc hôm đó, anh Cường không nói thêm với tôi một lờI nào.. Khi từ tiệm hớt tóc về nhà, chị Mè gội đầu cho tôi, chị hỏi:
- Anh Cường có hỏi gì chị không? . Tôi lắc đầu. Chị lại hỏi lần nữa:
- Bộ anh ấy không hỏi gì chị sao?".
Tôi lại lắc đầu.Tôi lại nghe chị thở dài và chờ mãi không thấy chị dội nước lên đầu khiến tôi phải nhắc chị. Mãi đến tối hôm đó tự nhiên tôi nhớ lại lời anh Cường có hỏi tôi vừa lúc tôi đến hớt tóc. Tôi xuống bếp tìm chị. Chị đang đọc quyển kinh thánh. 
Tôi nói với chị:
- Bữa ni anh Cường có hỏi, sao chị Mè không dẫn em đến hớt tóc, em trả lời cha em nói em lớn rồi đi một mình được, không cần chị Mè đưa đi
Tôi thấy mặt chị rạng rỡ lên, chị nâng quyển Thánh-kinh lên hôn. Lúc tôi ra khỏi bếp, tôi nghe chị nói vọng theo:
- Lần sau đừng quên như vậy nghe em, tội chị lắm!.
Mấy hôm sau, ngày Chúa-nhật, sau khi chơi đá banh trở về, lúc đi ngang nhà thờ Con Gà, chen lẫn giữa những người dự Thánh lễ ra về, trên đường đi, tôi nhìn thấy anh Cưng chở chị Mè sau xe đạp. Buổi trưa khi chị Mè gọi cửa để vô nhà, tôi mở cửa. Chị vừa vào trong cửa, tôi cười và nói lớn:
- Lúc nãy, em thấy anh Cường chở chị sau xe đạp !".
 Chị nhào tới đưa tay bịt miệng tôi, nhưng cha mẹ tôi đã nghe và đã thấy. Mặt chị đỏ gay, cúi đầu đi một mạch vào trong. Vừa lúc đó mẹ tôi nói với cha tôi:
- Hèn chi mấy tháng ni nó cứ thẩn thờ, quên trước, quên sau, nó thương thằng Cường chay rồi...mới có bấy nhiêu tuổi!
Cha tôi cắt ngang lời mẹ tôi, nói diễu:
- Hay ghê! chớ bà yêu tôi lúc bao nhiêu tuổi ? Con Mè năm ni nó mười bảy tuổi rồi, lúc đó bà còn nhỏ thua nó một tuổi..bộ quên rồi sao ?
Tôi chỉ nghe mẹ tôi "hừ” một tiếng rồi bỏ lên lầu.
Chuyện anh Cường chay và chị Mè thương nhau những ai ở trong hẽm gần tiệm hớt tóc của anh Cường đều biết. Bà chủ nhà cho anh Cường thuê mái hiên trước nhà để làm tiệm hớt tóc đã có lần kể cho mẹ tôi nghe lúc đó có tôi bên cạnh. Mấy ngày trước đó, ông thầy tu, cậu anh Cường ngoài Huế vào thăm anh Cường, có đến tiêm hớt tóc chơi, bà nghe người cậu nói chuyện với anh Cường: "Cậu và có thể cả mẹ cháu cũng không chấp nhận cuộc hôn nhân nầy. Cháu, con nhà thờ Phật bao nhiêu đời nay rồi mà cưới con Mè gốc đạo Thiên chúa đến khi cháu chết thì ai cúng cơm cho, bộ cháu muốn làm ma đói?”
Anh Cường phân trần:
- Đâu có sao, lấy chồng thì phải theo đạo chồng, cùng quá thì đạo ai nấy giữ, cậu nói giúp cháu để bà chấp thuận hai cháu cưới nhau". 
Người cậu lắc đầu lia lịa:
- Cậu biết là không được đâu, nhưng cậu sẽ cố nói giúp cho cháu, được hay không thì cậu chưa biết. Rồi ông gằn giọng:
- Hết người thương sao lại thương con nhà theo đạo Chúa!. 
Ông hỏi anh Cường tuổi của chị Mè, bấm đốt ngón tay, miệng lẩm nhẩm: "Tuổi hai đứa không có gì xung khắc, nhưng cái đạo của ông Chúa và ông Phật xung khắc...không biết tính sao đây ?"
Không bao lâu sau khi nghe lõm được chuyện anh Cường chay muốn cưới chị Mè, chị xin phép cha mẹ tôi nghỉ vài hôm để về Trà-kiệu chờ ngày gia-đình anh Cường từ Huế vào xin lẽ hỏi. Thời gian đó anh Cường cũng nghỉ hớt tóc. 
Ngày trở lại làm việc, chị Mè buồn thiu, chị không nói chuyện với ai, ngay cả tôi chị cũng không nói một lời. Ngày Chúa-nhật chị cũng không đi lễ nhà thờ. Càng ngày chị càng thẩn thờ hơn.Mẹ tôi cũng la rầy chị nhiều hơn vì chị lơ là công việc hàng ngày, đến nổi cha tôi phải ngăn mẹ tôi nặng lời với chị:
"Mình hãy thông cảm cho con Mè, gia-đình nó không cho thằng Cường chay cưới nó vì thằng Cường chay không chấp nhận bỏ Phật theo Chúa, nó mất tinh thần nên sao lãng công việc nhà, lần hồi tinh thần nó sẽ ổn định, làm việc bình thường trở lại.
Định kỳ hớt tóc của tôi tháng đó bị gián đoạn, anh Cường chay đóng cửa tiệm không rõ lý do. Ngày anh mở cửa làm việc trở lại cũng là ngày bà chủ nhà cho anh Cường chay thuê mái hiên làm tiệm hớt tóc qua nhà nói chuyện với mẹ tôi và tối hôm đó mẹ tôi kể lại cho cha tôi trong bữa cơm: "Thằng Cường chay đã đổi ý, chịu bỏ Phật theo Chúa để được cưới con Mè. Mẹ thằng Cường chay không chịu, đòi cắn lưỡi tự tử và bà ta đã làm thật. Gia-đình thằng Cường chay phải chở bà vào nhà thương Huế cấp cứu, may mà cứu kịp."
Rồi không hiểu sao, chị Mè vui vẻ trở lại,công việc nhà chị làm không còn bị mẹ tôi quở trách nửa. Chị tiếp tục đi lễ nhà thờ mỗi Chúa nhật, anh Cường chay chở chị đi lễ và đón chị trở về bằng chiếc xe đạp đầm mới mua. Chị Mè tiết lộ cho tôi biết, buổi tối hết công việc, chị sẽ xin phép cha mẹ tôi tập đi xe đạp, chị nhờ tôi: "Tối nào chị tập đi xe đạp, em giúp chị đóng của và mở cửa cho chị được không ?" 
Tôi đồng-ý, hỏi chị: "Xe đạp đâu mà chị tập ?"
Chị trả lời không đắn đo: "Xe đạp anh Cường mới mua". 
Biết được chuyện chị Mè được anh Cường chay đưa đón đi lễ nhà thờ mỗi sáng chúa nhật bằng xe đạp, mẹ tôi nói với cha tôi:
  - Từ đây ra nhà thờ Con gà chỉ có hai trăm thước mà đưa với đón, bày đặt! 
Cha tôi lại cười: 
   - Nguời ta yêu nhau mà em !"
Tôi học chưa hết năm đệ lục, chị Mè xin nghỉ việc vì giao ước làm việc ba năm chấm dứt. Cha mẹ tôi đồng ý.
Lúc bấy giờ mấy anh chị em tôi đã lớn, đứa em nhỏ nhất ba tuối đã có chi hai tôi săn sóc những khi nghỉ học hay những lúc rảnh rổi. Cha mẹ tôi cũng không còn cần chị Mè. Mùa hè năm đó tôi lang thang cũng lũ bạn nơi họ đạo Tam-tòa, tình cờ tôi gặp chị Mè, chị cho tôi biết đang cùng chung với người bạn mở một tiệm may quần áo tại đây. Chị đưa tôi và lũ bạn về tiệm may của chị và pha nước chanh cho uống. Đang uống thì anh Cường chay đạp xe đến, vứt xe bên vệ đường, đi nhanh vào tiệm may, mặt anh cau có có vẻ bực bội.
Anh nắm tay chị Mè kéo vào sau nhà.Thấy không khí lúc đó không vui, tôi và lũ bạn im lặng rời tiệm may. 
Về gần đến nhà, ngang qua hẻm có tiệm hớt tóc của anh Cường chay, nhìn thấy có vài người tụ tập trước tiệm hớt tóc, tò mò tôi dừng lại, tôi biết anh Cường chay không có trong tiệm, anh đang ở tiệm may của chị Mè.
Một người đàn bà tóc đã bạc đang ngồi bệt dưới đất trong tiệm hớt tóc, mặt mày bơ phờ, tóc tai rũ rượi, hai tay đập vào nền đất, miêng rên ư ử : "Con ơi là con ! Mè ơi là Mè ! con ở đâu mà mấy tháng ni không về với cha mẹ? Cường ơi là Cường ! mi giấu con gái tau ở mô ? hãy đem nó trả lại cho tau...không thì tau đập đầu chết ở đây cho mi hả dạ..."
Mấy người hiếu kỳ đứng xem nói với nhau:
"Cường chay với con Mè thương nhau, xin cưới nhau nhưng hai bên cha mẹ không thuận vì khác đạo nên hai đứa nó lén lút sống chung. Bữa ni mẹ con Mè từ quê ra tìm nó, đến đây nằm vạ đòi con gái."
Tôi rời đám đông, ra đến đầu hẽm thì vừa lúc anh Cường chay đạp xe chở chị Mè chạy vào hẽm.
Tối hôm đó chị Mè đưa mẹ qua xin phép cha mẹ tôi cho ngủ nhờ để sáng hôm sau trở lại quê. Anh Cường chay đứng ngoài cửa, tôi nghe anh thở dài, còn chị Mè hai mắt đỏ hoe. 
Mấy ngày liên tiếp sau đó tiệm hớt tóc của anh Cường chay đóng cửa, bà chủ nhà lại qua nói chuyện với mẹ tôi:
"Hôm con Mè đưa mẹ về quê, khi qua đò, con Mè nhảy sông tự tử, nhờ nước sông cạn nên con Mè được vớt lên, chở vô bịnh xá quận Điện-bàn cứu chữa. Bác sĩ nói cái thai trong bụng con Mè không bị ảnh hưởng gì. Thằng Cường chay không làm việc mấy bữa ni, nó đi thăm con Mè ở bịnh xá." 
Bà lại thở ra: "Trai gái thời nầy loạn rồi, chưa thành vợ thành chồng mà đã ăn nằm với nhau để có chửa!".
Từ đó, tôi không còn được gặp hay được nghe tin tức nào liên hệ đến anh Cường chay và chị Mè. 
*****
Sau những năm tháng chiến tranh ác liệt Quốc Cng, miền Nam Việt-nam thua cuộc. Chiến tranh chấm dứt, nhưng lòng người lại ly-tán. Đất nước như nồi canh chay bị vỡ, người dân xông xáo khắp nơi, tìm đường ra khỏi biên giới, làm người Do-Thái lang-thang, tạo lập cuộc sống mới nơi xứ người. Trong dòng người nầy có gia-đình tôi. Qua những năm tháng tạo lập đời sống mới, lần lượt cha mẹ tôi qua đời, linh-vị được thờ tại một ngôi chùa nhỏ phía Nam thành phố Paris nước Pháp. Chùa có tên là Tây-Phương. Vị sư Trụ-trì chùa, Thượng-tọa Như-Hóa mới đây đã viên-tịch, một thầy khác, Thuợng Toạ Giác-Miên, được mời từ Népal qua thay thế, nhưng tôi chưa có dịp diện-kiến. 
Rằm tháng bảy âm-lịch trong năm 2000, tôi điện thoại đến chùa xin ghi danh lễ cầu siêu cho cha mẹ nhân ngày xá tội vong nhân. Hôm đó, tôi vừa đến chùa thì lễ cũng đã bắt đầu.Tiêng đọc kinh, tiếng chuông mõ hòa quyện cùng khói nhang thơm làm tâm thần tôi thanh-thản, tôi cố lắng nghe âm thanh tên, tuổi cùng pháp-danh của cha mẹ tôi sẽ được đọc lên trong buổi lễ..tôi đang chờ...tên của cha mẹ cùng Pháp-danh của một phật-tử nào đó được đọc lên, kế tiếp ...và kế tiếp...
Tôi giật mình, không tin vào tai tôi..Théresa Hứa-thị Mè, sinh ngày 12 tháng ba năm 1943 tại làng Trà-kiệu tỉnh Quảng năm, tạ thế ngày 10 tháng 2 năm 1999 tại thành phố Marseille nước Pháp... thầy chủ trì chánh lễ vừa đọc đến đây thì tiếng chuông mõ bổng ngừng lại, hàng Phật-tử dự lễ sát chánh điện ngơ ngác, lao xao. Một tăng sinh còn trẻ nhưng vốn quen việc nghi lễ trong chùa vội vàng thay thế Thầy đọc tiếp danh sách cầu siêu trong tiếng xì xào mất trật tự...rồi có tiếng yêu cầu gọi xe cấp cứu.
Khi biết thầy Giác-Miên bị ngất xỉu, phản ứng theo thói quen của một bác-sĩ, tôi bước nhanh đến bàn thờ Phật. Thượng-tọa Giác-Miên đang quỳ, nhưng cả phần thân người bên trên gục xuống hàng chuông mõ phía trước. Tôi nâng mặt thầy lên, quàng tay sau lưng thầy, đỡ nhẹ thầy nằm xuống mặt thảm trước chánh-điện. Tôi thực hiện những tác động cấp cứu dành cho một người bị ngất xiủ. Vài phút sau thầy bắt đầu tỉnh lại. Một vài Phật-tử giúp tôi dìu thầy về phòng riêng. Tôi tiếp tục theo dõi huyết áp và nhịp tim của Thầy. Tôi nghe hơi thở của thầy dần dần bình thường trở lại, nhưng hai mắt của thầy vẫn nhắm như ngủ. Tôi căn dặn vị thị-giả những điều cần thiết phải săn sóc khi thầy tỉnh hẳn. Vừa quay người định ra khỏi phòng, tôi nghe tiếng thầy Giác-Miên thều thào: "Bác sĩ, bác sĩ có phải là chú Kính ở Đà Nẳng không?" 
Tôi quay người lại, thầy thều thào tiếp:
- Chú không nhớ thầy sao ? Nghe cái giọng đặc biệt Quảng-nam Đà-nẵng của chú, thầy nhận ra ngay...Thầy là Cường chay, ngày xưa hớt tóc cho chú đó .
Tôi cúi xuống nhìn kỹ mặt thầy: hai mắt đã mở, hai bên khóe mắt có vài giọt nước chảy dọc theo hai bên sóng mũi. Tôi nhận ra được thầy Giác-Miên là anh Cường chay. Tôi ngối xuống bên cạnh thầy, hai tay nắm tay của thầy.. Xúc động làm tôi ứa nước mắt...mới đó mà đă hơn hai mươi lăm năm. Cái âm thanh Theresa Hứa thị-Mè vừa được đọc lên trong lễ cầu siêu lại hiện trong đầu tôi..và tôi chợt hiểu, có thể đó là lý do thầy Giác-Miên ngất xỉu!
Những tháng năm sau đó tôi viếng chùa Tây-Phương thường xuyên hơn, có lẽ vì anh Cường chay là Thuợng Toạ Giác-Miên trụ trì. Một hôm, tôi gặp thầy xin nhận một lễ quy-y cho toàn gia-đình của tôi. Nhân lúc trong phòng làm việc chỉ còn mình thầy, tôi đánh bạo hỏi:
- Chắc thầy còn nghĩ đến chị Mè phải không? 
Thầy không trả lời, mặt trở nên suy-tư, xa vắng. Tôi hỏi tiếp:
- Hồi đó, sau khi chị Mè nhảy sông tự-tử, thầy có găp được chị ấy không? 
Thầy bối rối và do dự khá lâu rồi mới bắt đầu nói chuyện của thầy với giọng buồn rầu:
- Mô Phật! Mấy mươi năm nay thầy đã chôn quá khứ của thầy trong lời kinh, tiếng chuông tiêng mõ mà hình như nghiệp vẫn chưa dứt được, còn theo mãi cho đến ngày nay......
.... Trước khi Mè nhảy sông tự vẫn, thầy và Mè đã chuẩn bị sẵn sàng vào Lâm-đồng sinh-sống. Lúc bấy giờ Mè đã có thai. Chú biết, thầy và Mè thương nhau. Sự ngăn cản của hai bên gia-đình không cho hai đứa cưới nhau càng quyết liệt thì hai đứa càng bất chấp tai tiếng. Sau khi được cứu chữa bình-phục, Mè trở về quê. Hai đứa đã quyết định ngày giờ gặp nhau để bỏ xứ ra đi.. Ngày hẹn đã đến, thầy chờ không gặp được Mè. 
Ngày hôm đó đồng bào trong quê gồng gánh cùng gia-súc lũ lượt từ trong xóm làng xa xôi tràn ra quốc lộ. Người ta kể cho nhau nghe trận chiến đã xẩy ra đêm hôm trước ở làng Trà-kiệu. Giải-phóng quân Cộng -sản Việt-nam đã tấn công làng, đốt phá cơ sở chính-quyền địa-phương bắt dẫn đi chỉ điểm những viên chức chính quyền. Đạn pháo binh từ trong đồn địa phương quân cũng như từ quận bắn vào làng. Gần sáng, máy bay từ Đã-nẵng bay vào yểm trợ. Bom đạn quân đội hai bên làm làng Trà-kiệu tang-hoang. ..Không biết dân làng ai chết ai sống, mạnh ai nấy chạy. Cái gì lấy được thì mang theo. Cả mấy ngày tiếp theo, thầy đi đến các làng xã quanh làng Trà-kiệu, vào các bịnh-viện lớn, bịnh-xá nhỏ tìm Mè, Mè vẫn biệt tăm. Nửa tháng sau thầy theo chân dân làng được cho phép trở về đến trước nhà Mè, ngôi nhà đã bị cháy rụi. Mấy tháng chờ đợi sau đó, tin-túc về sự sống của Mè vô vọng, thầy trở về Huế và thầy xin xuất gia với người cậu...
Sau khi tốt nghiệp Phật-học viện Nha-trang năm 1970 thầy được học bỗng đi học bên Ấn-độ..rồi ở tu luôn tại bên ấy. Các đây vài tháng thượng-tọa Như-Hoá viên-tịch, thầy được chuyển về đây thay thế. 
Tôi hỏi thầy:
- Danh sách lập để được cầu siêu hôm rồi không phải do thầy lập sao?
"Không !.Do một phật-tử chuyên trách từ thời còn thầy Như-Hóa." 
Tôi nói tiếp:
- Như vậy thì chị Mè không bị chết trong hôm làng Trà kiệu bị giặc tấn công và người xin lễ cầu siêu xưng là con gái của chị Mè.,.nhưng không rõ có phải là con chị Mè với thầy hay con sau nầy với người khác...." 
Thầy không trả lời câu hỏi của tôi, thầy chỉ gật đầu...rồi lắc đầu...rồi thở dài. 
Tôi hỏi tiếp:
- Thầy có muốn tim sự thật về chị Mè những tháng năm sau này nầy không? 
Thầy trả lời dè dặt:
- Chú Kính giúp thầy việc nầy thì quý hoá lắm. Từ hôm đó đến nay, thầy suy nghĩ hoài mà không biết làm gì và làm như thế nào. 
Tôi vừa thương thầy vừa ái-ngại cho thầy, đoán biết trong thầy con sóng tình cảm xa xưa trở về đang làm thầy giao-động.
Nhờ vào số điện-thoại lưu trong phiếu xin lễ cầu siêu, tôi liên lạc với con gái chị Mè. Không khó khăn lắm khi tôi tự giới thiệu với con gái chị Mè, ngày xưa, rằng thời chiến tranh chị Mè làm việc trong gia-đình tôi ba năm, từ khi chị Mè thôi việc, tôi không có tin tức của chị...Vừa qua, nhân dự lễ cầu-siêu tại chùa Tây phương, có nghe tên của chị Mè được đọc trong buổi lễ, nên nay liên lạc để hỏi thăm. Đầu giây, cô gái tự nhận là con gái duy nhất của chị Mè,đang cùng chồng và con cái sờn ở một làng vùng ngoại ô Bắc Paris. Qua trao đổi nhận biết nhau, con gái chị Mè mời tôi đến thăm nhà nhân dịp cuối tuần. 
Một tuần sau đó tôi đến thăm con gái chị Mè. Nhà nằm trong một trang trại nuôi gà công-nghiệp. Con gái chị Mè tự giới thiệu tên là Michelle, có chồng là người Pháp chủ trại gà và có ba con. Sau những bỡ ngỡ ban đầu hai chúng tôi trở nên thân thiện rất nhanh. Tôi đã kể cho Michelle kỷ niệm giữa tôi và chị Mè ngày xưa lúc chị giúp việc cho gia-đình tôi.Tôi cũng đã giới thiệu cuộc sống hiện tại của tôi...và cả buổi sáng ngày cuối tuần hôm đó tôi đã được nghe Michelle kể về mẹ của mình, chị Mè.
Michelle sống với mẹ vùng Chợ Đệm Thủ-Đức, mẹ có một quán may nhỏ chuyên sửa quần áo lính cho các sinh-viên sĩ quan Trường bộ binh Thủ-Đức nên cuộc sống của hai mẹ con rất ổn-định. Những năm tháng đó, Michelle không bao giờ được mẹ kể cho biết gia-đình thân thuộc có ai và ở đâu. 
Khi hỏi về cha của mình, chị được mẹ nói là thất lạc trong chiến tranh không biết chết sống thế nào. Tên cha được ghi trong giấy khai-sinh là Lê-chí-Cường, sinh-quán tại Huế.. Năm 1975, khi miền Nam Việt-nam bị thay đổi chính quyền, mẹ chị vẫn sống bằng nghề may. Michelle được nhận làm tiếp-viên cho khách-sạn Caravelle nhờ thông thạo Pháp ngữ. Tại đây, Michelle quen biết với một du-khách Pháp và một năm sau hai người cưới nhau. Chồng của Michelle là đảng-viên đảng Xã-hội Pháp, làm xã trưởng của một xã nhỏ vùng ngoại ô thành-phố Marseille. 
Michelle và mẹ cùng qua Pháp một ngày. Mẹ được nhận phụ giúp việc săn sóc các nữ tu Thiên chúa giáo về hưu tại địa phương. Năm 1999, mẹ chị bị phát hiện ra bịnh ung-thư lá lách ở giai đoạn cuối. Trong chống chọi với căn bịnh ngặt nghèo, biết là mình không thoát khỏi sự chết, mẹ đã kể lại một phần đoạn đời của mẹ.... 
Sau cái đêm làng Trà-Kiệu bị giặc tấn công chiếm đóng, gia-đình mẹ tản-cư vào tạm trú nhà một người bà con tại thị-xã Tam-kỳ. Cuộc chiến trở nên ác-liệt, gia-đình mẹ không trở về làng cũ. Cháu được mẹ sinh ra vài tháng sau đó. Cuộc sống cơ cực, hai mẹ con bị gia-đình đối xử lạnh nhạt vì mẹ sinh con trước có phép cưới. Quá đau khổ,quẩn-trí, một đêm mẹ định để cháu lại cho bà ngoại, lén ra sông tìm cái chết. Trên đường đi khi ngang qua một căn nhà trong một xóm nhỏ, mẹ nghe tiếng khóc, tiếng của một đứa trẻ: “Mẹ ơi! mẹ đâu rồi ?. Mę đi đâu rồi? Con sợ quá..." Trong đêm khuya, tiếng khóc đòi mẹ của đứa trẻ như xé lòng mẹ, đánh thức lương tâm và trách nhiệm của mẹ mà trong một phút giây nông nổi mẹ đã định làm chuyện dại dột... Và mẹ đã quay trở về nhà. 
Trong cùng cực của cuộc sống, một may mắn đến với mẹ...người bạn cùng may chung với mẹ ở Đà-nẵng trước đây, vừa có chồng là lính phục vụ trong quân-trường Sĩ-quan trừ bị Thủ-Đức, gặp lại mẹ, rủ mẹ cùng hợp tác may chung tại quán may ở Chợ Nhỏ mà bạn mẹ theo chồng dọn về đây. Cuộc sống bắt đầu ổn-định,mẹ đã nhiều lần về Đà-nẵng, về Huế tìm ba, nghe nói ba đã đi tu ở nơi xa và ba đã như một cánh chim lạc trong bốn phương trời vô-định.. 
Michelle ngừng một chốc,thở ra, kể tiếp:
“Mẹ cũng có kể cho cháu về mối tình ngang trái của mẹ.... mẹ không còn kỳ-vọng gặp ba trước khi nhắm mắt mẹ đã căn dặn cháu phải làm theo lời mẹ, sau khi mẹ chết... mẹ nói:
- Khi mẹ chết rồi, cháu phải thờ mẹ trong một ngôi chùa nào đó....ngày xưa, vì vấn đề tín-ngưỡng mà tình duyên của mẹ ngang trái. Ba của cháu đã xin từ bỏ đạo Phật của mình theo đạo Thiên-chúa để được cưới mẹ, nhưng gia-đình của ba không thuận, bà nội, tức mẹ của ba cháu đòi tự vẫn nếu ba con quyết định bỏ Phật. Nay vì tấm lòng của ba, ba bỏ đạo của mình để được cưới mẹ, tuy chuyện không thành. Tôn giáo thường dạy con người có linh-hồn sau khi chết sẽ về an nghỉ ở một nơi nào đó, thì như vậy, Phật sẽ che chở linh hồn mẹ và mẹ sẽ gặp được ba cháu, không còn bị giới luật của tôn giáo ràng buộc, ngăn cấm.”
“ Cháu đã làm theo lời mẹ, đem di-ảnh của mẹ thờ tại chùa Tây-Phương mấy năm nay, từ khi cha mẹ chồng cháu nghỉ hưu, giao cơ-sở chăn nuôi cho chồng cháu quản lý vừa lúc chồng cháu hết nhiệm-kỳ xã trưởng." 
Tôi đã kể lại cho thầy Giác-Miên câu chuyện gặp gỡ Michelle ngày hôm đó. Qua điện thoại giọng thầy đầy khích-động. Tôi cho thầy biết, Michelle chưa biết thầy là thân sinh của cháu vì lý do tôi chưa xin sự chấp thuận của thầy...thầy nói: “Phải cho Michelle biết....làm thế nào để tạo sự thuận-tiện thầy cũng chưa biết..thôi chờ vài hôm nữa mình bàn tính lại."
Sự bàn tính tạo thuận tiện cho cha con thượng-tọa Giác Miên và Michelle gặp nhau đang trong dự trù thì một buổi sáng tôi đang còn ngủ có tiếng reo điện thoại đánh thức tôi dậy. Một người nào đó từ chùa Tây-Phương báo cho biết tin thượng-tọa Giác-Miên đang công phu sáng đã bị đột quỵ, được xe cứu thương chở vô bịnh viên cấp cứu. Thay vì vào nơi làm việc, tôi lái xe chạy thẳng vào bịnh viện thăm thượng-tọa Giác Miên; nhân viên tại đây báo cho biết Thượng-tọa đã ra đi, bác-sĩ không cứu kịp.
Sau lễ an-táng thượng-tọa Giác Miên, tôi đến thăm Michelle một ngày cuối tuần.Tôi chuyển cho Michelle một bao thơ của thượng-toạ Giác Miên đã viết sẵn. Bao thơ được tìm thấy trên bàn làm việc của thầy, nhờ tôi trao lai. Michelle nhìn tôi vẻ bối rối khi nhận thơ. Tôi yên lặng ngồi nhìn Michelle e-dè mở thư ra đọc. Tôi thoáng thấy có những tấm hình đen trắng kèm theo thư cùng bản sao một thẻ căn cước... Mặt Michelle càng lúc càng trở nên căng thẩng đầy xúc động...những giọt nước mắt chảy ra từ hai khóe mát, lan dài trên má. Tôi đứng dậy đến gần cửa sổ nhìn ra ngoài, tránh nhìn các hình ảnh cảm động đang diễn ra trước mặt..
Một tiếng nấc, rồi những tiêng thổn thức tiếp nối. Tôi quay lại, mặt của Michelle cúi xuống, hai tay ôm đầu, hai vai run-rẩy. 
Chờ Michelle bớt xúc động, tôi đến ngồi bên cạnh, giúp nhặt lên thư và hình ảnh bị rơi xuống đất.Trong một tấm hình, tôi nhìn thấy anh Cường chay và chị Mè chụp chung bên bờ con sông Hàn ở Đà-nẵng, hai người âu yếm choàng vai nhau... và bản sao thẻ căn-cước bằng tiếng Pháp có in hình anh Cường chay ghi: Lê-chí-Cường sinh năm 1940 tại Huế... Việt-nam.... 
Michelle nhận thư và hình ảnh từ tay tôi, ôm tất cả vào ngực..lại thổn thức: “Mẹ ơi ! Ba ơi !”.
Tôi từ giã ra về.
Michelle tiễn tôi ra cổng trang trại. Tôi nghe có tiếng gà gáy trong một góc nào đó từ bên trong xa.. Nắng buổi chiều vàng vọt trãi dài trên các ngọn cây. Tôi thoáng nhìn thấy anh Cường chay đang chở chị Mè trên xe đạp chạy từ nhà thờ Con Gà về xóm chùa Hải-Châu, nơi anh Cường chay có tiệm hớt tóc.
Nguyễn-đại-Thuật

Friday, June 1, 2018

Nhánh Sông Ngậm Ngùi - Nguyên Nhung


Tôi không bao giờ nghĩ mùa hè năm ấy, sau hơn bốn mươi năm kể từ ngày từ giã mái trường, tôi lại có dịp thấy Toàn trong đêm Hội Ngộ. Đời biền biệt trôi đi như dòng sông, cuốn những con thuyền ra biển xa. Sau khi nối lại được liên lạc với người bạn cũ cùng lớp, hai đứa hẹn gặp nhau kỳ họp mặt Trường ở Toronto, hội ngộ với các bạn đồng môn trường xưa, để được sống lại những phút giây của tuổi học trò.
Cuối cùng, bạn tôi lại không đến được vì một lý do bất ngờ, thế là chỉ có mình tôi khăn gói lên đường với một mớ tâm sự ngổn ngang. Chưa bao giờ tôi nôn nao đến thế, như lần đầu tiên năm đệ thất được mặc chiếc áo dài trắng đồng phục bước vào ngưỡng cửa Trung Học, cô bé 12 tuổi bỗng thấy mình trở thành người lớn trước mấy đứa em còn đang học Tiểu học. Hơn bốn mươi năm rồi, một quãng thời gian khá dài đủ để cho những kỷ niệm ngậm ngùi và cay đắng đã nhạt nhòa đi, vậy mà chỉ hôm nay thôi, tôi nghe trái tim bừng bừng reo vui những nhớ nhung bao hình ảnh về trường xưa, bạn cũ, nhất là hình ảnh của ai kia một thời đã làm trái tim tôi đắm say chất ngất, để rồi cũng nát tan khi cuộc tình không trọn.

Từ chiếc bàn trong góc tối của hội trường đang ồn ào tiếng trò chuyện, thăm hỏi lẫn nhau, tôi đã nhận ra Toàn khi anh bước vào ngưỡng cửa căn phòng lớn. Không thể nhầm lẫn được, dù có đến mấy mươi năm chúng tôi không gặp lại nhau. Vẫn dáng cao cao nghệ sĩ ấy, mái tóc bồng bềnh đã bạc màu thời gian, khuôn mặt xương xương và nụ cười phảng phất một nét gì không trọn. Toàn đang bắt tay một vài người quen, tôi ngỡ ngàng tưởng mình đang sống trong mơ, một cảm giác lạnh buốt chạy dài khắp châu thân. Hóa ra chàng vẫn còn đó, cái tin chàng bỏ mình trong một trại tù sau năm bảy mươi lăm chỉ là ngộ nhận, bạn tôi đã nghe phong phanh như thế khi ở Việt Nam, rồi kể lại cho tôi nghe. Khi nghe bạn nói, tôi chỉ biết ngậm ngùi và cầu nguyện cho Toàn, cũng mừng là Toàn đã qua được những phút giây cận kề với nỗi chết.

Bốn mươi năm với biết bao khổ ải đẩy xuống cuộc đời, cuối cùng, đêm nay cả tôi và chàng cùng có mặt nơi đây, từ hai ngả đường khác nhau, để tìm về những kỷ niệm dưới mái trường xưa thuở ấy.Trong hội trường vẫn ồn ào tiếng cười, tiếng nói của bạn bè gặp lại nhau, những bàn tay xiết chặt bàn tay, những đôi mắt rưng rưng vì xúc cảm khi không ngờ bao nhiêu năm còn có đêm này. Họ đến đây từng nhóm, từng cặp, có đủ vợ chồng con cái, có người già người trẻ, có những người cô lẻ như tôi, như Toàn, mỗi người mang theo bên mình nhiều kỷ niệm và họ cũng đang đi tìm kỷ niệm, ước mong tìm gặp lại thầy cũ, bạn cũ, những hình ảnh ấy tưởng đã mịt mờ với thời gian, đã tản mát đi khắp bốn phương trời, từ khi chia tay với mái trường thân yêu ấy.

Từ chỗ ngồi trong góc tối này, tôi vẫn không thể nào không nhìn về phía Toàn, nơi chàng đang ngồi với vài bạn cũ. Hình như chưa ai nhận ra tôi, còn tôi thì im lặng tìm kiếm. Thời gian hơn bốn mươi năm trôi qua, trông tất cả đã già đi với mái tóc điểm sương, riêng Toàn, vẻ lặng lẽ của chàng đã nói lên chiều sâu của một nỗi đau nào đó khiến lòng tôi ngậm ngùi vô tả. Có thể là nỗi đau từ mối tình đầu không trọn, có thể là sự mất mát thảm khốc hơn từ những cuộc tình sau, sự thay đổi của thời gian đã làm chàng mất đi nét vui tươi ngày trẻ tuổi, tất cả nỗi đau ấy biết cái nào hơn. Thỉnh thoảng tôi thấy Toàn nhìn quanh, tìm kiếm một cái gì đó để rồi lại có vẻ thất vọng khi không tìm thấy gì cả. Không biết anh có đang nghĩ đến tôi như tôi đang nghĩ đến anh đêm nay, và liệu sự gặp gỡ bất ngờ này, có làm tan biến đi hình ảnh cũng như tình cảm đẹp đẽ và dễ thương của tuổi học trò hơn bốn mươi năm trước.




Riêng tôi, không phải chỉ đêm nay lòng tôi mới xôn xao như thế, mà đã biết bao nhiêu lần trong đời, dường như bao kỷ niệm êm đềm của những ngày trẻ tuổi vẫn âm ỉ trong lòng tôi, cho hơn bốn mươi năm tôi làm cánh chim viễn xứ. Biết bao lần trong căn nhà cô quạnh tôi đứng lặng nhìn cơn mưa ào ạt đổ xuống cánh đồng cỏ hoang vu, gió lồng lộng hun hút lùa vào khung cửa gỗ trong những ngày mưa bão. Bao nhiêu lần ấy, nước mắt như hòa với nước mưa, tôi nhớ về quê nhà trong một nỗi cô đơn khủng khiếp.


Làm sao chồng con tôi có thể chia sẻ với tôi được nỗi nhớ nhung của kẻ xa nhà , khi ở đấy có một góc trời riêng, chất chứa hình ảnh gia đình, bạn bè và những kỷ niệm buồn vui trong quá khứ. Mưa ở đâu cũng là mưa, gió ở đâu cũng là gió, vậy mà trong sâu thẳm của trái tim, tôi không khỏi không nhớ lại tiếng mưa rơi rào rào trên chiếc áo đi mưa một chiều tan học, Toàn đứng đợi tôi ngoài cổng trường, hai đứa đã che chung một tấm áo mưa, lòng vui vui như còn nghe vẳng lại tiếng cười chế giễu của bạn bè.                                      

 *  *  *

Trên sân khấu, người điều khiển chương trình đang giới thiệu những tiết mục trong đêm hội ngộ, tiếng vỗ tay rào rào, người ngồi chung bàn hỏi tôi câu gì đó làm tôi giật mình ngượng nghịu. Từ lúc biết Toàn có mặt trong đêm hội ngộ, đầu óc tôi bỗng dưng quay cuồng ngẩn ngơ, cảm tưởng đau sót của lần chia tay năm ấy như hiện về trong trí nhớ, suốt cả đời tôi không hề mong mỏi một lần hạnh ngộ .

 Định mệnh. Tôi thường tin vào hai chữ định mệnh để an ủi mình khi sinh ra trong một gia đình nghèo với bao điều bất hạnh. Toàn và tôi gặp nhau thật tình cờ với những bài thơ đăng trên Đặc San của trường năm đó. Anh học hơn tôi hai lớp, là một trong những cây bút khá nổi tiếng với những bài thơ hay, tôi là người ngưỡng mộ và cũng đang tập tành viết lách. Thơ của Toàn như nói hộ giùm tôi những trăn trở của tuổi trẻ về quê hương, khi chúng tôi đang sống trong đất nước chiến tranh, với cái nhìn hoài nghi về tương lai. Hai tâm hồn văn nghệ gặp nhau, quý mến nhau, để rồi thương yêu nhau đó là chuyện tự nhiên của thế giới học trò

Chỉ có điều là tôi quá vô tư để không nhìn thấy trở ngại, giữa tôi và chàng lại có hai hoàn cảnh khác biệt hẳn nhau. Toàn may mắn sinh ra trong một gia đình giàu, có tiếng tăm trong xã hội lúc bấy giờ, trong khi đó ba tôi chỉ là người lính tầm thường rong ruổi suốt bốn vùng chiến thuật. Mẹ con tôi cứ lẽo đẽo theo ba từ đơn vị này tới đơn vị khác, mãi tới khi đám con khôn lớn cần phải có một nơi cố định học hành, một mình ba tôi ra đơn vị, để vợ con ở lại trú ngụ trong xóm nghèo đa số là dân lao động,  những con đường ngoằn nghoèo trong ngõ hẻm với những mái lá tối tăm, chật chội.

Tôi vẫn nhớ ngôi biệt thự xinh đẹp có tường vây xung quanh trên con đường rợp bóng sao, có giàn hoa tigôn màu hồng nhạt leo quanh chiếc cổng sắt sơn trắng, đấy là ngôi nhà của cha mẹ Toàn. Mỗi lần đi ngang qua đấy, tôi vẫn mang chút tự ty mặc cảm để không dám nhìn vào hai cánh cổng sắt đóng im ỉm. Tôi biết Toàn có một đời sống no đủ và sung sướng, khác biệt hẳn cuộc sống của tôi, đứa con gái nhà nghèo, con một người lính trận, lúc nào cũng đối diện với hiểm nguy và nỗi chết.



Biết tôi nghèo như thế nhưng Toàn vẫn yêu tôi, với tất cả sự nồng nhiệt cuả tình yêu tuổi trẻ, Toàn không hề nghĩ rằng đấy là một trong những trở ngại mà hai đứa gặp phải, để có ngày phải chia tay nhau mãi mãi. Những ngày đi học, Toàn thường đứng chờ tôi trước cổng trường dù nắng hay mưa, chàng đưa tôi về trên những lối ngõ quanh co , tặng nhau những bài thơ tuổi học trò thơm ngát tình yêu ngây thơ, trong sáng.Tôi vẫn hồn nhiên sống trọn vẹn với tình yêu tuổi học trò, dù đôi lần vô tình bắt gặp cái nhìn khinh khỉnh của cô em gái Toàn cùng học một trường với tôi. Mỗi lần bắt gặp Toàn đứng đón tôi ở cổng trường, dù năm ấy anh vừa lên Đại Học, cô bé lại phóng cho tôi một cái nhìn đầy vẻ miệt thị, khiến Toàn cũng ngượng ngùng không biết nói gì cho không khí bớt phần căng thẳng.

Không biết những gì đã xảy ra trong gia đình chàng lúc ấy, nhưng tôi linh cảm có sự chống đốí ngấm ngầm của cha mẹ Toàn, khi biết Toàn đã yêu một đứa con gái nhà nghèo, con của một người lính trận không tên tuổi. Tuy biết phận mình, nhưng vì yêu Toàn tôi vẫn không chống đỡ nổi tình yêu đó, chỉ biết cố gắng học để hy vọng trong tương lai, tôi sẽ thoát khỏi hoàn cảnh nghèo khổ hiện tại, nhất là để đỡ đần gánh nặng cho ba mẹ tôi trong lúc tuổi già.


  *     *    *

Mùa hè năm ấy, mùa hè có những trận đánh từ nơi chiến trường xa, ba tôi theo đoàn quân tiếp viện cho đơn vị bạn ngoài địa đầu chiến tuyến, cũng để bảo vệ cho những người thành phố được sống một cuộc đời yên vui, hạnh phúc. Sự bất hạnh luôn luôn đeo đuổi những cảnh đời cùng khổ, ba tôi ngã xuống vào mùa hè năm ấy, mẹ tôi đã ngất đi không biết bao nhiêu lần khi dẫn đám con dại đi nhận xác chồng trong nhà quàn của Quân Y viện.
Chiều hôm ấy, cũng một buổi chiều mưa rơi tầm tã, trên mái tóc xanh tôi quấn vội vã mảnh khăn tang, nhìn mẹ bằn bặt trong tiếng nức nở đến xé lòng, rũ xuống như một tàu lá đổ trước nấm mộ của ba tôi. Tất cả là một chấm hết cho đời người góa phụ, là nỗi mất mát lớn lao cho lũ con thơ, kể từ đây, ba tôi đã vắng mặt vĩnh viễn trên cõi đời này, mãi mãi và mãi mãi.

Đêm mưa. Nhìn ảnh ba tôi trong màu áo trận, trên bàn thờ nhòa nhạt khói nhang, tôi vẫn ngỡ ba tôi còn sống và đang băn khoăn, ái ngại cho hoàn cảnh bi đát của vợ con giữa thời buổi chiến tranh, cùng bao nhiêu cạm bẫy, cam go của cuộc đời. Mưa vẫn rơi đều trên mái lá, càng về khuya càng não nùng như những lời tỉ tê, tiếng mưa tí tách từng giọt buồn tênh rớt xuống chiếc thau nhôm hứng những giọt mưa từ mái nhà giột ẩm ướt, như những giọt lệ tủi buồn của đứa con mồ côi rớt xuống cõi đời hiu quạnh.



Số tiền tử tuất của ba tôi quá ít ỏi, chỉ đủ cho mẹ tôi mở một tiệm tạp hóa nho nhỏ, bán đủ thứ than củi, mắm muối cho những người hàng xóm trong khu lao động lúc nhúc những mảnh đời khốn khổ. Cái quán nghèo nàn ấy càng ngày càng thâm thủng đi vì sự đau ốm của mẹ tôi, cùng sức ăn của bầy em đang tuổi lớn.
Cố gắng hết niên học, tôi quyết định bỏ học đi làm giúp đỡ mẹ. Mảnh bằng Tú Tài I chưa đủ cho tôi có một hành trang vững chãi bước vào đời, nhưng tôi không thể nào chịu nổi khi mỗi đêm trời giông bão, căn nhà lá nghèo nàn, dột nát như muốn đổ xuống dưới sức gió của đêm mưa, mẹ tôi phải lẩm nhẩm tính toán suốt ngày những đồng thu chi trong cái vốn cỏn con ấy, rồi nó cũng sẽ mất đi lúc nào chẳng biết. Nghĩ đến Toàn và căn nhà xinh đẹp của gia đình chàng, tôi lại thấy nghẹn ở ngực. Tình yêu Toàn dành cho tôi vẫn không thay đổi, vẫn đầy tràn hơn bao giờ hết, nhưng mặc cảm trong lòng đứa con gái nhà nghèo vẫn làm tôi tủi thân, để có cảm tưởng là cả hai đứa khó nắm được tình yêu cho nhau, khi gia đình hai bên quá khác biệt.


Không dễ gì tìm một việc làm tương đối trong thời buổi ấy, là con một tử sĩ, tôi chỉ có thể xin một việc làm khiêm nhượng trong hệ thống quân đội, hoặc làm một chân thư ký đánh máy trong căn cứ Mỹ đang chiến đấu ở Việt Nam. Tôi suy nghĩ rất nhiều, cuối cùng nhờ một người bà con, tôi cũng xin được một việc làm cho quân đội Mỹ. Nói sao cho hết cái mặc cảm của đứa con gái Việt Nam ra vô mỗi ngày nơi căn cứ Mỹ, phải nhận những cái nhìn nghi kỵ phẩm giá của người đồng chủng, nhưng cứ đến kỳ lương, cầm những đồng tiền trong chiếc bao thư về nhà cho mẹ, tôi mừng rỡ hơn bao giờ hết, vì biết từ nay có thể thay ba để lo cho lũ em dại.

Nhưng điều ấy không đem lại may mắn cho tôi trong tình yêu, khi chính Toàn ngại ngần mãi  rồi mới nói cho tôi biết cái trở ngại trong tình cảm của hai đứa, nếu tôi cứ tiếp tục đi làm sở Mỹ. Cái nghèo đã là một cái tội, huống chi đứa con gái nào đi làm sở Mỹ trong thời buổi ấy cũng tự nhiên gánh thêm một cái tội nữa trên đầu, dù chưa làm gì nên tội, nhất là đối với những gia đình trưởng giả, nhiều thành kiến như gia đình Toàn.

Toàn khổ sở vì yêu tôi, vì những thành kiến ích kỷ của gia đình chàng, nhưng liệu chàng có cách gì để giúp tôi thoát ra cái bế tắc của cảnh nghèo hiện tại. Với sự giàu có, dư dả của cha mẹ chàng, Toàn đâu thể hình dung nổi cái khổ của đám người cùng đinh trong xã hội, mà mỗi miếng cơm là những giọt mồ hôi ướt đầm manh áo vá. Chàng làm sao thấy hết được, tôi đã phải gò lưng trên chiếc xe cọc cạch chất đầy than củi, mắm muối, mùi hôi hám của những thứ thực phẩm nhà nghèo ấy làm cho tôi trông càng thê thảm hơn. Có bao giờ trong căn biệt thự sáng trưng ánh đèn, văng vẳng điệu nhạc dặt dìu êm dịu, Toàn có biết lúc ấy lũ em tôi đã phải vật lộn với sách vở dưới ngọn đèn đỏ quạch, không đủ soi sáng cho những hàng chữ của bài học.


Gia đình Toàn vốn đã không ưa tôi ở cái nghèo, nay lại thêm một yếu tố nữa để bắt chàng đoạn tuyệt. Có lúc quẩn quanh Toàn nghĩ đến chuyện hai đứa đem nhau đi thật xa, đến một phương trời nào đó, xa loài người, xa cuộc đời, gạt bỏ tất cả thành kiến hẹp hòi của những người xung quanh. Tôi đâu có can đảm để làm điều ấy khi nghĩ mình đâu có tội tình gì, nếu không phải chỉ vì nghèo để không được yêu. Hơn nữa tôi còn một bà mẹ đau khổ và một bầy em cần nương tựa, tôi không thể sống chết với một mối tình mà bỏ bê mẹ và các em. Thôi thì đành chia tay, để Toàn được yên tâm học hành và để cha mẹ chàng được vui vẻ sắp xếp cuộc đời của con họ. Tôi ngậm ngùi cắt đứt mối tình học trò, phải nói những lời phũ phàng chát đắng với Toàn để rồi lại khóc vùi một mình trong những đêm không ngủ.


Không biết Toàn nghĩ gì về tôi lúc đó, nhưng tôi chấp nhận xa chàng để được trọn vẹn cả hai phía, cho gia đình tôi cũng như gia đình chàng. Một thời gian sau tôi nghe tin Toàn bỏ học, gia nhập quân đội dù gia đình chàng dư sức lo cho chàng ăn học. Tôi không hề trách anh, vì cả hai đứa cùng là nạn nhân của một xã hội hẹp hòi ích kỷ, nhưng từ lúc ấy, tôi không còn mơ mộng để tin rằng tình yêu sẽ mang đến niềm vui cho cuộc đời, lòng bỗng dửng dưng như giọt mưa buồn tênh rớt xuống hiên nhà rồi trôi đi biền biệt.


Không biết may hay rủi, vào những ngày cuối tháng tư năm ấy, tôi vội vã rời xa quê hương theo diện nhân viên sở Mỹ, trong một chuyến bay cuối cùng đến đảo Guam. Mẹ tôi nhất định ở lại vì nấm mộ của chồng trong nghĩa trang quân đội, một thân nơi đất khách quê người, tôi phải tìm nơi nương tựa. Chồng tôi là một cựu chiến binh Hoa Kỳ từng tham chiến ở Việt Nam, nay làm việc trong cơ quan thiện nguyện. Người đàn ông có màu mắt mênh mông như biển khơi, đã chia xẻ với tôi suốt những tháng năm tôi lạc loài nơi xứ lạ, giúp tôi nguôi ngoai những đau buồn trong quá khứ.

*   *    *


Đêm hội ngộ tiếp theo với màn văn nghệ “cây nhà lá vườn” thật vui mà cũng thật cảm động, tôi có cảm tưởng mình đang dự một đêm liên hoan trong sân trường những mùa hè năm xưa. Trên sân khấu, những người bạn đồng môn muôn năm cũ đang thi thố tài năng của mình, không màu mè kiểu cách.

Tôi ngỡ ngàng thấy Toàn đã đứng trên sân khấu tự bao giờ. Vẫn một cung cách giản dị và vững chãi, Toàn đang nói mấy lời ngắn ngủi về bài thơ của chàng hơn bốn mươi năm trước, bài thơ mà chàng đã đọc cho tôi nghe khi hai đứa đứng trú mưa dưới mái hiên một căn phố cũ. Có một cái gì làm tay chân tôi tê dại, nghe được cả tiếng đập của con tim đang thổn thức trong lồng ngực. . .

        

" Trời vào mưa rồi em

 Mưa sáng, mưa chiều, mưa ngày, mưa đêm

Tiếng mưa nức nở, đau nhức về khuya

Như lời thì thầm anh yêu em . . ."






Trái tim tôi như muốn òa vỡ khi nhớ lại bài thơ tình hơn bốn mươi năm trước Toàn đang đọc trong đêm Hội Ngộ. Làm sao tôi có thể quên, từng lời thơ như xoáy vào tim khiến tôi nhớ lại buổi chiều năm ấy, hai đứa che chung một tấm áo mưa, đi dưới trời mưa bay bay khi gió từ bến sông thổi vào lồng lộng. Hai đứa nép vào nhau, nghe ấm áp nồng nàn trong từng nhịp đập của trái tim rộn rã, từng tiếng cười khúc khích mặc cho gió mưa lạnh lẽo. . .

Toàn vẫn say sưa với những âm thanh vang vọng từ ngày trẻ tuổi, như chàng đang lướt nhẹ trong trái tim tôi phím tơ chùng năm cũ cho một cung đàn dở dang, tiếng ngân như những vết đau dù đã hàn gắn với thời gian, sao đêm nay tôi nghe như dư âm tiếng thổn thức của lần chia xa năm ấy. Trên sân khấu, giọng chàng mượt mà trong mấy vần lục bát, nghe như điều gửi gấm từ trái tim với một nỗi đau chất ngất. . .

   " Đôi khi nhìn mãi lên trời

Tìm trong mây ảo bóng người năm xưa

Nghe vườn rung lá thu mưa

Lao xao trong nắng lời xưa thầm thì

Kể từ gió cuốn mây đi

Đời xa, xa mãi mong gì thấy nhau..."

( thơ NN)

   Bài thơ còn dài với giọng ngâm trầm ấm năm nào, như những giọt mưa ướt sũng trong đôi mắt tôi. Tai tôi như ù đi, mỗi một lời thơ như một dòng nước mắt chảy ngược vào tim khiến tôi ngồi chết lặng. Có phải chàng đang đi tìm kiếm lại cố nhân với chút hy vọng mong manh nào đó, mặc dù tôi đang ngồi trong góc tối này với những giọt nước mắt. Chắc không ai nhìn thấy tôi khóc. Bây giờ thì tôi đã hiểu, trong lòng chàng cũng như trong lòng tôi, cái tình yêu ấm áp và đau đớn thuở ban đầu ấy vẫn không bao giờ tan biến, dù giờ đây cuộc đời hai đứa đã là hai nhánh sông ngậm ngùi trôi theo những bến bờ xa lạ. Xung quanh tôi giờ đây im lặng quá, đâu đây nghe như có tiếng thở dài để sót thương cho một cuộc tình không trọn. 



 Các bạn đồng môn đang trao nhau những cuốn giai phẩm mùa hè Toronto, ai nấy hối hả và chăm chú lật từng trang, nhìn từng tấm ảnh cũ và mới, họ đang cố tìm một vài nhân ảnh đã mịt mờ trong quá khứ. Cầm cuốn Giai Phẩm với trang bìa là hình ảnh cô nữ sinh kiều mị trước sân trường, những bướm hoa ngày cũ, dãy hành lang vàng đục, từng ô cửa và tiếng phấn rít trên bảng đen như hiện về trong trí nhớ. Tôi thấy tôi ngày xưa, tôi thấy Toàn ngày xưa, tôi thấy những giọt mưa rớt xuống sân cỏ non giăng giăng nhạt nhòa trong mắt tôi một màn lệ mỏng.

 Không, tôi không muốn gặp chàng đêm nay, dù chàng đã đến đây, đã khơi lại trong trái tim đau những ngất ngây ngày cũ, chút đắng cay của một mối tình học trò đằm đẵm những kỷ niệm xót xa. Kỷ niệm vẫn chỉ là kỷ niệm, khi những nhánh sông đã rẽ ra trăm ngàn hướng đời khác biệt, để mỗi lúc nhớ đến nhau, lòng chỉ vẫn rưng rưng với những hình bóng cũ. Nếu có lúc nào đó, sông bốc lên thành mây, thì tôi mơ được là mưa trên mái trường xưa, một lần nữa xôn xao trên mái tóc xanh tuổi học trò.


Tôi bỏ ra về trước khi đêm hội ngộ bế mạc, không một lần nhìn lại người tình năm xưa. Đêm Toronto mát lạnh dù đang giữa mùa hè, suốt đêm tôi chập chờn không ngủ, gần sáng lại thiếp đi với một giấc mơ lạ lùng, nghe như có tiếng mưa rơi rào rào trên tấm áo mưa ngày nào. Mở cửa bước ra ngoài hành lang của khách sạn, tôi mới biết đêm qua trời mưa, những vũng nước mưa còn ướt sũng trên mặt đường, gió từ Ngũ Đại Hồ lồng lộng thổi đem cái lạnh hắt hiu vào lòng người, như cái lạnh của cơn mưa chiều năm xưa.


Thu xếp hành lý ra phi trường cho kịp chuyến bay lúc mười giờ, tự nhiên tôi lại khóc, những giọt nước mắt cứ ứa ra trên viền mi, nào ai biết, nào ai hay. Giã từ Toronto, giã từ bạn bè gần xa, giã từ hình ảnh người yêu thuở học trò một đêm hội ngộ, từ đây cho mãi đến nghìn sau, tôi vẫn là nhánh sông ngậm ngùi, để nhớ tiếc hoài hoài những tháng ngày tuổi mộng.

                                                    NGUYÊN NHUNG