Ngày 30 tháng 4 năm 1975 đang đến gần, nay chúng ta nhìn lại những
ghi nhận về lịch sử cần phải tôn trọng về hai nền Đệ Nhứt và Đệ Nhị Cộng
Hoà của 2 Cố Tổng Thống Việt Nam Cộng Hoà là "Ngô Đình Diệm &
Nguyễn Văn Thiệu", tuy chỉ hiện diện ngắn ngủi trong khoảng 20 năm nhưng
nước Việt Nam Cộng Hoà cũng kịp ghi lại nhiều dấu ấn, các chánh phủ
VNCH, ở thời đệ Nhất và đệ Nhị Cộng hoà, dù đối diện vô vàn thách thức,
dù phải đương đầu với võ lực xâm lăng của chủ nghĩa cộng sản từ phương
bắc, vẫn đủ sức điều hành một xứ sở với gần 20 triệu người một cách hiệu
quả trong chừng mực có thể với các thành tựu điểm qua trong bài này, ở
những lãnh vực kỹ nghệ, giáo dục, văn hoá.
__________________________________
Thành công trước hết của VNCH cần phải kể có lẽ là nỗ lực đón nhận gần 1
triệu đồng bào miền Bắc di cư sau Hiệp định Geneva 1954. Ghi nhận thì
dễ dàng, nhưng ngay cả với một cường quốc như Hoa Kỳ ngày nay, việc tái
định cư, ổn định đời sống về mọi mặt (nhà ở, công ăn việc làm, y tế,
giáo dục…) cho cả triệu dân là một thách thức ghê gớm. Chánh phủ Ngô
Đình Diệm có công lớn trong sứ mạng này. Có lẽ không gì ngạc nhiên khi
nhiều gia đình người Bắc di cư đến nay vẫn dành nhiều ưu ái cho vị tổng
thống đầu tiên của VNCH.
Người ta nhận xét người Việt ở miền Nam
thường hào sảng và… hào hoa. Đặc điểm này dường như cũng đúng với chế độ
VNCH. Mặc dù trong khung cảnh chiến tranh điêu linh, miền Nam Việt Nam
vẫn kịp khai triển một nền văn hoá nghệ thuật độc đáo, đậm chất Việt,
cách riêng trong các ngành văn chương, âm nhạc, hội hoạ… Có hai lý do
lớn góp phần thúc đẩy sự viên mãn này: công việc giáo dục nhân bản, và
một nền báo chí tự do. Cả miền Nam thời đó có khoảng 50 tờ nhật báo và
hằng trăm tạp chí lớn nhỏ đủ loại, tạo sân chơi cho nhiều tài năng trẻ
mặc sức tung hoành. Chính trong môi trường này, dưới thời VNCH rất nhiều
tác phẩm quý đã ra đời, vẫn còn chỗ đứng đến ngày nay. Có hằng trăm,
thậm hằng ngàn tên tuổi thành danh vào lúc tuổi đời chỉ ngoài đôi mươi,
điều sau này hiếm gặp lại.
Sự có mặt của người Mỹ và các nước bạn
đồng minh, cùng nhu cầu chiến cuộc, giúp VNCH có một mạng lưới đường
xá, cầu cống, và các công trình kiến trúc khang trang, rộng khắp xứ sở.
Hệ thống hạ tầng cơ sở này hầu như còn nguyên trạng, trở thành trục
xương sống của nền kinh tế Việt Nam kéo dài đến sau này, khoảng đầu thập
niên 1990.
Kinh tế nước Việt Nam thời hậu chiến rập khuôn mô
hình Nga Sô cũ, khiến đời sống dân chúng cơ cực bần hàn, dẫn đến quyết
định “cải tổ”, “mở cửa”, và thu hút “đầu tư” năm 1986. Nhìn lại, các nhà
hoạch định kinh tế của VNCH đã đi trước đó đến 30 năm. Từ 1957, chánh
phủ VNCH đã ban hành nhiều chánh sách mạnh mẽ, kêu gọi đầu tư ngoại quốc
lẫn tư nhân, giúp canh tân mở mang nước nhà. Chính nhờ những quyết sách
nhạy bén này, trong 20 năm kế tiếp, miền Nam Việt Nam trong thế vô vàn
khó khăn, vẫn nỗ lực xiển dương một nền công nghệ riêng tuy quy mô còn
khiêm tốn. Ta có thể nhắc những cái tên lừng lẫy của một thời như: Khu
kỹ nghệ Biên Hòa, Khu kỹ nghệ An Hòa, Khu kỹ nghệ Phong Đình, nhà máy
giấy Cogido An Hảo, các xưởng dệt Vinatexco và Vimytex, nhà máy thủy
tinh Khánh Hội, hai nhà máy xi măng Hà Tiên và Thủ Đức… VNCH cũng kịp
xây đập thủy điện Đa Nhim từ đầu thập niên 1960, là một trong những lý
do giúp phát triển mạng lưới điện lên ít nhất 10 lần. Kỹ nghệ dầu hoả
cũng manh nha đầu thập niên 1970 với hãng Mobil của Mỹ chuẩn bị khai
thác dầu tại giàn khoan Bạch Hổ ngoài khơi Vũng Tàu.
Một thành
quả khá độc đáo khác, thường được nhiều người nhắc nhở, là sản phẩm xe
hơi “La Dalat”. Khởi thuỷ là một cơ xưởng của Citroen mở từ năm 1936.
Đến đầu thập niên 1970, hãng này gọi là “Citroen Xe Hơi Công Ty”, đóng
nhiều phiên bản xe La Dalat khác nhau, mở cửa hoạt động đến năm 1975.
Ngày nay, vẫn có nhiều người chơi xe cổ sưu tập các xe La Dalat này, đặc
biệt ở Sài Gòn. Chiếc xe tí hon, đơn giản, song ít nhiều gợi niềm hoài
cảm, và hãnh diện cho người miền Nam một thuở, đã bước vào kỹ nghệ đóng
xe hơi từ rất sớm.
Một điểm son đặc biệt thời VNCH là chương
trình “Người Cày Có Ruộng” khởi sự năm 1970. Đây là tương phản lớn với
cuộc “cải cách ruộng đất” đẫm máu ở miền Bắc với chánh sách cộng sản. Ở
miền Nam Việt Nam, chánh phủ VNCH nghĩ ra cách bán công khố phiếu, lấy
tiền đó mua lại ruộng đất của điền chủ, rồi đem chia cho nông dân miễn
phí. Chương trình này giúp khoảng bốn triệu nông dân có đất ruộng riêng,
đời sống được cải thiện đáng kể. Nhiều học giả sau này đánh giá “Người
Cày Có Ruộng” là một trong những chương trình cải cách điền địa quy mô,
mang nhiều tham vọng, và thực thi hiệu quả nhất tại một quốc gia thuộc
thế giới thứ ba.
Trong những thành tựu này, có thể nói, không gì
sánh bằng nền giáo dục VNCH. Tuy non trẻ, ảnh hưởng của nó còn kéo dài,
vị ngọt của nó còn thấm đẫm theo nhiều thế hệ người Việt ở hải ngoại lẫn
quốc nội sau này. VNCH là một trong những quốc gia đưa giáo dục vào
chính hiến pháp, bảo đảm công dân được học hành miễn phí, và nền đại học
không bị chi phối bởi chánh trị. Giáo dục thời VNCH chú trọng các yếu
tố nhân bản, dân tộc, và khai phóng.
Có thể kể vài con số ước
lượng sơ khởi vào đầu thập niên 1970. VNCH có 2.5 triệu học trò tiểu
học, trên nửa triệu học trò trung học, và hơn 100 ngàn sinh viên đại
học. Trên cả nước, số người biết đọc / viết chiếm khoảng 70% dân số.
Ngành giáo dục VNCH có đến 3 máy chấm bài thi trắc nghiệm điện tử IBM
thế hệ đầu của Mỹ. Lúc đó Singapore mới có 1 máy, và ở VN hơn ba mươi
năm sau mới biết sử dụng trở lại.
VNCH có hệ thống trường học cả
công lẫn tư rất mạnh, ở mọi cấp học. Nhiều trường còn lưu danh đến ngày
nay như: Viện Đại học Sài Gòn, Viện Đại học Huế, Viện Đại học Đà Lạt,
Viện Đại học Vạn Hạnh, Viện Đại học Minh Đức, Học viện Quốc gia Hành
chánh, trường Quốc gia Âm nhạc, trung học Pétrus Ký, Chu Văn An, Gia
Long, Quốc Học (Huế), Nguyễn Đình Chiểu (Mỹ Tho), Lasan Taberd, Regina
Pacis, Regina Mundi, Bác ái, v.v…
Tuy chỉ hiện diện trong khoảng
20 năm ngắn ngủi, nước Việt Nam Cộng Hoà cũng kịp ghi lại nhiều dấu ấn.
Các chánh phủ VNCH, ở thời đệ Nhất và đệ Nhị Cộng hoà, dù đối diện vô
vàn thách thức, dù phải đương đầu với võ lực xâm lăng của chủ nghĩa cộng
sản từ phương bắc, vẫn đủ sức điều hành một xứ sở với gần 20 triệu
người một cách hiệu quả trong chừng mực có thể. Với các thành tựu điểm
qua trong bài này, ở những lãnh vực kỹ nghệ, giáo dục, văn hoá… VNCH
đóng góp một cái nền, một cái khung chắc chắn. Sự ảnh hưởng của nó lên
cách tổ chức, ý thức, và đời sống người Việt về sau này sẽ cần thêm thời
gian để người ta nhận biết rõ. Thời VNCH cũng tạo ra một lớp người mới,
có tri thức, chánh trực, hết lòng phụng sự quốc gia. Chỉ tiếc rằng sau
một cơn biến động, đa phần trong số họ không có cơ hội giúp phục hưng xứ
sở, thậm chí còn phải hứng chịu nhiều sự trả thù ác hiểm.
..,thế
cho nên, dù đã thôi tồn tại hơn 42 năm rồi, Việt Nam Cộng Hòa vẫn còn
được nhiều người nhắc nhở, nửa như niềm hãnh diện chưa phôi phai, nửa
như nỗi lưu luyến dịu dàng, về một thời thanh xuân cũ, về cái buổi ban
đầu trẻ trung nhiều hứa hẹn… Và có lẽ, từ nỗi nhớ nhung nhẹ nhàng này
của nhiều người Việt, sẽ bật ra những tia hy vọng, hướng về một tương
lai khác hơn, về sự phục sinh của các giá trị đẹp, và sự rõ ràng sòng
phẳng với nhiều sự thật lịch sử còn ẩn khuất.
Xin hết.
Blog Saigon Xưa
No comments:
Post a Comment